Một số tồn tại và hạn chế trong công tác kế toán tài sản cố định tại doanh nghiệp
Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức với mọi nền kinh tế, ngay cả đối với những nước có nền kinh tế phát triển. Đây cũng là một khó khăn đối với Việt Nam trong điều kiện là một nước đang phát triển đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi. Việc hoàn thiện luật, chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam nói chung và hoàn thiện kế toán tài sản cố định nói riêng trong các doanh nghiệp là rất cần thiết, nhất là đối với những doanh nghiệp sản xuất với quy mô lớn.
Tài sản cố định (TSCĐ) nói chung và TSCĐ hữu hình nói riêng là một trong 3 yếu tố cơ bản, giữ vai trò quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp (DN) trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập hiện nay để phát triển vững chắc và nâng cao năng lực cạnh tranh, các DN phải không ngừng đổi mới hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất. Tuy nhiên, để có thể đưa ra những quyết định đúng hướng đòi hỏi phải có đầy đủ thông tin. Muốn vậy, các DN phải cải tiến, hoàn thiện các công cụ quản lý có chức năng thu thập, xử lý cung cấp thông tin phục vụ cho quản lý của DN.
Trong tổ chức kế toán của đơn vị có thể vì những lý do khách quan hay chủ quan mà khó tránh khỏi những sai sót nhất định. Vấn đề quan trọng đặt ra đó là làm thế nào khắc phục các sai sót để đảm bảo những thông tin cung cấp là chính xác, nhằm hạn chế tối đa những tổn thất cho DN. Công tác kế toán TSCĐ tại các DN ở Việt Nam hiện nay đang có những tồn tại và hạn chế như sau:
Thứ nhất, việc phân loại TSCĐ chưa thống nhất với tính chất tham gia của TSCĐ.“ TSCĐ trong các DN là những tài sản có giá trị lớn và dự tính đem lại lợi ích kinh tế lâu dài cho DN”. Đối với những DN có quy mô lớn thì việc phân loại TSCĐ rất cần phải có độ chính xác cao, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sản xuất của DN. Tuy nhiên, do tính chất của ngành là khai thác và sản xuất, bởi vậy việc phân loại và sử dụng của tài sản cố định sẽ không tránh khỏi những bất cập.
Một TSCĐ hữu hình khi được đưa vào sử dụng sẽ luôn tuân thủ tối đa các điều kiện của kỹ thuật để đảm bảo hoạt động tốt nhất và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, nó không thể hạn chế được sự ăn mòn, do tác động của các yếu tố tự nhiên như thời tiết, khí hậu và môi trường. Như vậy, sự hao mòn của TSCĐ hữu hình là một phạm trù khách quan, nằm ngoài ý muốn của DN, nhưng DN lại không thể bỏ qua điều này. Ở góc độ quản lý, nó sẽ giúp cho DN đánh giá mức độ sử dụng tài sản, từ đó sẽ có chính sách quản lý cũng như thu hồi vốn đầu tư cho TSCĐ hữu hình một cách hợp lý.
Thứ hai, phương pháp khấu hao TSCĐ chưa hợp lý, việc quản lý và phân cấp quản lý TSCĐ ở các DN chưa được thuận lợi cho công tác đánh giá hiệu quả TSCĐ. Trong các khâu quản lý tại DN thì có thể nói công tác quản lý kế toán TSCĐ là một trong những mắt xích quan trọng nhất. Quản lý và sử dụng tốt TSCĐ không chỉ có tác dụng nâng cao chất lượng năng lực hoạt động, tiết kiệm vốn mà còn là một biện pháp quan trọng khắc phục những tổn thất do hao mòn TSCĐ gây ra.
Bởi vậy, thông tin về TSCĐ, khấu hao TSCĐ là hết sức quan trọng đối với một DN. Theo thông tư 203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009 của Bộ Tài chính quy định việc trích hoặc thôi trích khấu hao TSCĐ thực hiện bắt đầu từ ngày (theo số ngày của tháng) mà TSCĐ tăng hoặc giảm. Tuy nhiên, trên thực tế thì DN vẫn tính khấu hao TSCĐ theo nguyên tắc tròn tháng. Việc tính khấu hao này không phải là sai sót trọng yếu, tuy nhiên nó sẽ gây ảnh hưởng đến các chỉ tiêu về chi phí, giá thành, lợi nhuận của DN ở kỳ có biến động tăng hoặc giảm TSCĐ.
Thứ ba, việc kế toán kê khai khấu trừ thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu vào khi đầu tư TSCĐ nhưng không đủ điều kiện được khấu trừ. Điều này sẽ dẫn đến việc xác định sai nguyên giá, giá trị hao mòn và khấu hao TSCĐ, ảnh hưởng đến chi phí, kết quả hoạt động của DN và ảnh hưởng đến nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước.
Theo quy định hiện hành của Nhà nước, DN chỉ được khấu trừ thuế giá trị gia tăng khi mua tài sản, dịch vụ nói chung, TSCĐ nói riêng nếu thoả mãn đồng thời các điều kiện: (1) Đơn vị kế toán đăng ký với Nhà nước tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ; (2) Khi mua tài sản, dịch vụ đơn vị phải nhận được hoá đơn giá trị gia tăng (mua của đơn vị tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ); (3) Tài sản, dịch vụ mua được sử dụng cho hoạt động thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng, kể cả chịu thuế với thuế suất 0%; (4) Phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với giao dịch có giá trị từ 20.000.000 đồng trở lên. Nếu thiếu một trong bốn điều kiện trên thì khi mua TSCĐ, đơn vị kế toán sẽ không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Thuế GTGT không được khấu trừ trong trường hợp này sẽ được tính vào nguyên giá TSCĐ.
Thứ tư, giá trị gia tăng quyết toán nâng cấp TSCĐ thành sửa chữa lớn TSCĐ. Chi phí nâng cấp TSCĐ được quyết toán tăng nguyên giá TSCĐ nó sẽ ảnh hưởng đến khấu hao TSCĐ. Sửa chữa lớn TSCĐ dù là sửa chữa lớn theo kế hoạch (trích trước chi phí sửa chữa), hay sửa chữa lớn ngoài kế hoạch (phân bổ dần chi phí sửa chữa) thì việc quyết toán chi phí sửa chữa chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất kinh doanh mà không ảnh hưởng đến khấu hao TSCĐ.
Mục đích của việc quyết toán nâng cấp TSCĐ thành sửa chữa lớn TSCĐ là giá trị gia tăng muốn khấu trừ nhanh chi phí sửa chữa thay vì khấu trừ dần thông qua việc tính khấu hao TSCĐ. Không phải số tiền sửa chữa lớn hay nhỏ để quyết định đưa vào sửa chữa lớn hay nâng cấp mà vấn đề quan trọng đó là phải căn cứ vào kết quả sửa chữa hay khả năng hoạt động của TSCĐ sau sửa chữa.
Theo quy định hiện hành thì sửa chữa TSCĐ là công việc bảo dưỡng, thay thế các chi tiết, bộ phận của TSCĐ nhằm khôi phục khả năng hoạt động theo trạng thái hoạt động tiêu chuẩn như thiết kế ban đầu của TSCĐ; nâng cấp TSCĐ là công việc cải tạo, xây lắp, đầu tư bổ sung cho TSCĐ nhằm nâng cao công suất, chất lượng sản phẩm, tính năng, tác dụng của TSCĐ so với thiết kế ban đầu hoặc kéo dài thời gian sử dụng hay làm giảm chi phí hoạt động của TSCĐ so với trước khi nâng cấp.
Với phương pháp kế toán nâng cấp TSCĐ theo chế độ kế toán hiện hành, nguyên giá TSCĐ sau nâng cấp bằng nguyên giá ban đầu của TSCĐ cộng chi phí nâng cấp thực tế; còn giá trị tính khấu hao - hao mòn của TSCĐ sau nâng cấp được xác định bằng giá trị còn lại của TSCĐ được nâng cấp cộng chi phí nâng cấp thực tế.
Thứ năm, hệ thống những chỉ tiêu như nguyên giá, giá trị hao mòn luỹ kế, giá trị còn lại, sức sản xuất, tỷ suất hao phí hay tỷ suất sinh lời của TSCĐ… là những chỉ tiêu mang tính quá khứ và mọi đối tượng đều có thể biết khi nghiên cứu các báo cáo tài chính của DN.
Tuy nhiên, để đưa ra các quyết định như thay thế máy móc thiết bị, dây chuyền cũ bằng máy móc, thiết bị, dây chuyền mới hoặc cải tạo hay nâng cấp để tăng khả năng sản xuất - kinh doanh thì những thông tin đó là chưa đủ đối với các nhà quản trị DN. Để có thể đưa ra được những quyết định này, đòi hỏi nhà quản trị phải có thông tin phân tích kết quả kinh doanh trong quá khứ, hiện tại, từ đó đưa ra phương án lựa chọn thích hợp.
Như vậy, thông tin do kế toán nói chung và kế toán TSCĐ nói riêng cung cấp có ý nghĩa thiết thực với mọi đối tượng có lợi ích liên quan từ hoạt động của DN. Khi được tổ chức tốt thì nó sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị trong các DN.
Tài liệu tham khảo:
1. Chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 03, VAS 04;
2. Thông tư 203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009 của Bộ Tài chính về việc ban hành Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định;
3.Thông tư 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn Chế độ kế toán DN.