Nâng cao năng lực quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Cơ quan Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp kiểm soát an toàn, chất lượng của sản phẩm, hàng hóa để nâng cao năng suất chất lượng cho doanh nghiệp.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với yêu cầu đảm bảo an toàn, chất lượng sản phẩm, hàng hóa từ khâu sản xuất, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường và trong quá trình sử dụng nhằm đáp ứng các mục tiêu bảo vệ sức khỏe, an toàn, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và đồng thời đáp ứng mục tiêu tăng trưởng, thuận lợi cho thương mại.
Cơ sở của hoạt động kiểm tra, kiểm soát an toàn, chất lượng của sản phẩm, hàng hóa chính là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Vì vậy, việc xây dựng, ban hành và áp dụng, tuân thủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật là hoạt động quan trọng, xuyên suốt của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, Hiệp hội… triển khai thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và các thông lệ, cam kết quốc tế liên quan.
Trong những năm qua, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các bên liên quan triển khai rất nhiều hoạt động trong phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước được phân công tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật An toàn thực phẩm và Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật. Qua đó, mang lại những kết quả nhất định.
Về chính sách, pháp luật, Bộ Công Thương đã xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền để hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia công tác về an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật… triển khai hoạt động bài bản, khoa học.
Việc tổ chức, nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), Quy chuẩn Việt Nam (QCVN) được triển khai bài bản, hệ thống và chuyên nghiệp thông quá hệ thống các chuyên gia và các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Bộ. Tính đến nay, Bộ Công Thương đã ban hành 67 QCVN cho các sản phẩm hàng hóa: Vật liệu nổ công nghiệp, kỹ thuật điện, thiết bị đặc thù công nghiệp, sản phẩm tiêu dùng (dệt may, giấy)...
Các QCVN này là cơ sở khoa học và công cụ quản lý nhà nước trong việc đảm bảo an toàn, sức khỏe của người sử dụng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng… thông qua việc kiểm soát các sản phẩm, hàng hóa sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu có nguy cơ gây mất an toàn, kém chất lượng.
Hệ thống TCVN của nước ta bao gồm trên 13.000 TCVN, tỷ lệ hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, khu vực và nước ngoài là 60%. Số lượng TCVN liên quan đến ngành Công Thương khoảng hơn 6.387 TCVN (chiếm 53% tổng số TCVN).
Về cơ bản, các TCVN này được xây dựng bởi ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, trong đó có sự tham gia của Bộ Công Thương với tư cách thành viên của các Ban kỹ thuật này.
Đứng ở góc độ cơ quan quản lý nhà nước với các hoạt động nêu trên, Nhà nước đã và đang thực hiện vai trò định hướng, xây dựng thể chế, tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp được hoạt động sản xuất, đổi mới sáng tạo các sản phẩm, hàng hóa.
Mặt khác, ở góc độ tuân thủ, doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo khi sản xuất, sáng tạo ra sản phẩm, hàng hóa cần chủ động nắm bắt các thông tin về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, kết nối với cơ quan quản lý nhà nước khi cần thiết để đảm bảo hàng hóa được lưu thông trên thị trường, bao gồm tại các hệ thống siêu thị, kênh phân phối, bán lẻ được thuận lợi.
Để thực hiện được nội dung này, doanh nghiệp cần lưu ý một số hoạt động:
Một là, xây dựng, công bố tiêu chuẩn cơ sở phục vụ hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Hai là, đề xuất, tham gia xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế thông qua các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực nhằm tận dụng lợi thế đối với sản phẩm, hàng hóa của mình và phục vụ công tác công bố tiêu chuẩn áp dụng, công bố hợp chuẩn.
Ba là, nghiên cứu, góp ý các dự thảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến sản phẩm, hàng hóa của mình để đóng góp tiếng nói cũng như đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp sau khi QCVN được ban hành.
Bốn là, tuân thủ và áp dụng các quy định của QCVN tương ứng trong quá trình lưu thông hàng hóa thông qua hoạt động chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy; Năm là, định hướng triển khai giai đoạn tiếp theo.
Hệ thống TCVN của nước ta bao gồm trên 13.000 TCVN, tỷ lệ hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, khu vực và nước ngoài là 60%. Số lượng TCVN liên quan đến ngành Công Thương khoảng hơn 6.387 TCVN (chiếm 53% tổng số TCVN).