Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng lần thứ XII:
Nhận thức nhất quán của Đảng về mục tiêu, định hướng chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế
Trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng, nội dung về mục tiêu chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được khẳng định, nhất quán với các văn kiện trước của Đảng, nhưng mang nội hàm mới cần được nhận thức đúng đắn.
Về vấn đề:Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Thứ nhất, Dự thảo nêu mục tiêu: “Bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc,trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,bình đẳng và cùng có lợi”[1]. Điều này thể hiện sự nhất quán về mục tiêu đối ngoại đã nêu ở Đại hội XI. Mặt khác khẳng định Đảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc.
Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Đảng đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ.
Lợi ích quốc gia dân tộc là toàn bộ lợi ích mà nhân dân ta có được, giành được, phát triển và giữ gìn trong quá trình đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trong bối cảnh mới, nội hàm lợi ích quốc gia, dân tộc đã được mở rộng, bao gồm cả lợi ích của ta ở trong nước và ở ngoài nước, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Trong đó bao gồm cả lợi ích tổng thể của quốc gia, đất nước và lợi ích cụ thể của các doanh nghiệp, của các cá nhân là người Việt Nam; lợi ích của chúng ta trong các doanh nghiệp nước ngoài có quan hệ hợp tác, đầu tư ở Việt Nam, với Việt Nam; quyền lợi, lợi ích của nước ta trong các tổ chức quốc tế và khu vực, trong các hiệp ước, cam kết quốc tế đa phương, song phương mà chúng ta tham gia, v.v. Nội dung rộng lớn và toàn diện đó hợp thành chỉnh thể lợi ích quốc gia, dân tộc, phải được bảo đảm, giữ gìn.
Yêu cầu bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc đòi hỏi rất cao ý thức, trách nhiệm công dân, của các chủ thể, các lực lượng, đặc biệt là các lực lượng trực tiếp quan hệ, hợp tác với nước ngoài; kiên quyết ngăn chặn những biểu hiện chỉ vì lợi ích cục bộ, địa phương, lợi ích riêng làm ảnh hưởng, vi phạm, phương hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.
Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc trong điều kiện mới hiện nay là phải trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Đó là,các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia thành viên phù hợp với Hiến chương của Liên hợp quốc và các chuẩn mực của ASEAN được ghi nhận trong các văn bản của ASEAN như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác của ASEAN (TAC) và Hiến chương ASEAN. Các nguyên tắc được nêu ra trong hai văn kiện trên tạo ra khuôn khổ cơ bản nhất cho quan hệ quốc tế hiện đại mà tất cả các quốc gia nên tuân thủ.
Thứ hai,Dự thảo tiếp tục nêu mục tiêu: “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[2]
Mục tiêu này đã được nêu trong văn kiện của Đại hội XI, đến nay trong điều kiện, hoàn cảnh mới chúng ta cần có nhận thức rõ và đầy đủ hơn ở những ý sau:
-Trách nhiệm bao gồm những gì và thực hiện trách nhiệm như thế nào luôn luôn cần được tính toán kỹ trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, năng lực thực hiện của ta trong từng vấn đề, từng giai đoạn.
-Trách nhiệm cần được xác định theo các cấp độ: trách nhiệm đối với dân tộc của mình; trách nhiệm đối với khu vực của mình; trách nhiệm đối với những vấn đề chung của nhân loại.
Có bốn khuôn khổ để xác định trách nhiệm quốc tế của Việt Nam. Đó là:
+ Tôn trọng, tuân thủ các tiêu chuẩn, chuẩn mực, và thể chế quốc tế được thừa nhận rộng rãi
+ Xử lý hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích chính đáng của các quốc gia khác, luôn luôn ý thức về hậu quả của hành vi của mình đối với lợi ích của cộng đồng quốc tế và của các quốc gia khác.
+ Tham gia cung cấp các dịch vụ công quốc tế như duy trì hòa bình và an ninh quốc tế và khu vực, kiến tạo các khuôn khổ hợp tác chính trị, kinh tế công bằng hơn, dân chủ hơn và văn minh hơn.
+ Đóng góp phù hợp với năng lực và vị thế để giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu, đặc biệt thông qua các chương trình do Liên hợp quốc khởi xướng.
Ngoài ra, việc xác định là thành viên có trách nhiệm cũng phải luôn lưu ý rằng Việt Nam là một quốc gia mới vươn lên đạt mức thu nhập trung bình, tiềm lực kinh tế còn nhiều hạn chế, do đó cần phải xác định mức độ đóng góp phù hợp cho các sự nghiệp chung.
Thứ ba,về định hướng đối ngoại, bên cạnh định hướng bao trùm là nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, dự thảo văn kiện nhấn mạnh các định hướng: “Chú trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng, thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác lớn, đối tác quan trọng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh”[3].
- Cần hiểu định hướng chú trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng trong điều kiện mới hiện nay ở những ý sau:
+Trước hết, Trung Quốc là ưu tiên số một trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam.Việt Namvà Trung Quốclà hai nước láng giềng hữu nghị núi sông liền một dải, tình hữu nghị của nhân dân hai nước có từ lâu đời.Quan hệ hữu nghị Trung - Việt "vừa là đồng chí vừa là anh em". 65 năm qua, việc kiên trì phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị luôn là ý nguyện chung của nhân dân hai nước, cũng là dòng chính của quan hệ hai nước.Bước vào thời kỳ mới, với sự nỗ lực chung của cả hai bên, hai nước đã tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị và làm sâu sắc hợp tác cùng có lợi trên cơ sở vốn có, quan hệ đối tác hợp tácchiến lược toàn diệnViệt- Trungkhông ngừng phát triển.
Hai nước có chế độ chính trị tương đồng, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Ðảng Cộng sản lãnh đạo; có lý tưởng tương thông, đều lấy việc phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc và nhân dân hạnh phúc làm mục tiêu phấn đấu; có con đường phát triển gần giống nhau, đều đang ở giai đoạn then chốt cải cách và phát triển... Việc không ngừng củng cố quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện với Trung Quốc phù hợp lợi ích căn bản của hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước.
+Tiếp theo,phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng làtạo cho đất nước một hệ thống các đối tác gần gũi, gắn kết,hữu nghị, truyền thống cólợi ích đan xen trên mọi tầng nấcláng giềng, từ khu vực Đông Nam Á, châu Á và rộng lớn hơn ở tầm toàn cầu.
Trong những năm qua chúng ta đã nỗ lực xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng, hoàn thành phân giới cắm mốc trên đất liền với Lào và Trung Quốc, đạt kết quả tích cực về phân giới, cắm mốc biên giới đất liền với Cam-pu-chia. Chúng ta cũng đã ký các điều ước về phân định biển với Trung Quốc, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a cũng như hiệp định và thỏa thuận về việc quản lý các vùng biển chưa phân định với Cam-pu-chia và Ma-lai-xi-a[4].
Phát triển các mối quan hệ hữu nghị, truyền thống, đặc biệt với các nước bạn láng giềng Lào, Cam-pu-chia, các nước trong Cộng đồng ASEAN, giúp Việt Nam cùng các nước láng giềng, phát triển trong hòa bình,ổn định, thiết thực và hiệu quả ở cả trung và dài hạn.
- “Thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác lớn, đối tác quan trọng” cần được hiểu với những nội dung mới là:
+Qua việc thiết lập khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với các đối tác quan trọng, Việt Nam cơ bản hoàn thành việc xác lập vị trí trong chính sách đối ngoại của các nước lớn, tạo cơ sở quan trọng đưa quan hệ của Việt Nam với các đối tác này phát triển ổn định, thiết thực và hiệu quả.
+ Qua việc thiết lập khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với các đối tác quan trọng, Việt Nam đã nâng tầm vị thế của mình trong quan hệ bình đẳng với các đối tác này, cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận Việt Nam với vai trò và ảnh hưởng nhất định trong khu vực.
+ Quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với các đối tác quan trọng làm gia tăng xu hướng hợp tác và cam kết chính trị ở các cấp cao nhất tôn trọng lựa chọn thể chế chính trị của Việt Nam. Việt Nam với các nước đối tác chiến lược và đối tác toàn diện,có nhiều cơ hội để tăng cường hợp tác, phát triển hiểu biết, thu hẹp và kiềm tỏa khác biệt.Các khuôn khổ quan hệ mới thiết lập đã làm gia tăng xu hướng đối thoại, giúp làm rõ những khác biệt, qua đó giảm thiểu những căn nguyên hiểu lầm chiến lược.
Trong nội hàm “Thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác lớn, đối tác quan trọng”của Việt Nam, mục tiêu là thúc đẩy hợp tác vì hòa bình, ổn định để phát triển và đóng góp vào hòa bình, phồn thịnh của khu vực, vì phát triển của các dân tộc trên thế giới... Đó cũng là thông điệp về những nguyên tắc đối ngoại của Việt Nam và cũng khẳng định sự công nhận, sự ủng hộ vững chắc của các nước đối với đường lối đối ngoại hòa bình cao cả của đất nước ta.
- Định hướng “chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh” cần được hiểu:Sau năm 2015, ASEAN hoàn tất quá trình hình thành cộng đồng thống nhất, theo đó, liên kết khu vực được nâng cao về mọi mặt thông qua ba trụ cột chính là Cộng đồng Chính trị - An ninh (APSC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC).
Kể từ khi khởi xướng ý tưởng hoàn thành xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, Việt Nam là nước thành viên đạt tỷ lệ hoàn tất lộ trình xây dựng Cộng đồng ở mức cao mặc dù nguồn lực còn hạn chế. Thể hiện trên các lĩnh vực là:
Về chính trị - an ninh, Việt Nam cùng các nước ASEAN đang triển khai các mục tiêu còn lại của Kế hoạch tổng thể APSC, trong đó có việc nhận, chủ trì và triển khai những biện pháp được cho là khó thực hiện do tính nhạy cảm và phức tạp.
Việt Nam cũng tích cực thực hiện các sáng kiến, như thiết lập đường dây liên lạc trực tiếp giữa bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN; chủ trì tổ chức Diễn đàn Biển ASEAN (AMF), Diễn đàn Biển ASEAN mở rộng (EAMF); đẩy mạnh hợp tác giữa ASEAN với các đối tác trong việc ngăn ngừa và xử lý hiệu quả thách thức đang đặt ra, như an ninh, an toàn hàng hải, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, thiên tai, dịch bệnh Ê-bô-la,... Quốc hội, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân Việt Nam đã có những hoạt động phong phú theo các cơ chế liên quan.
Về kinh tế,Việt Nam là một trong ba nước đạt tỷ lệ cao nhất trong việc thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC với mức hoàn thành gần 90%.
Việt Nam cũng tham gia tích cực trong đàm phán về các biện pháp thuận lợi hóa thương mại, đầu tư, dịch vụ; chủ động thực hiện các cam kết về giảm thuế nhập khẩu xuống mức từ 0% đến 5% theo Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (đối với đa số các dòng thuế trong danh mục cắt giảm thông thường); nỗ lực hoàn thành cam kết về xóa bỏ thuế quan đối với các sản phẩm trong các ngành ưu tiên hội nhập.
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng mà Việt Nam ký với Hàn Quốc, Liên minh Hải quan gồm Nga, Bê-la-rút, Ca-dắc-xtan và đang hoàn tất đàm phán với EU, trong năm 2015 góp phần kết nối và mở rộng lợi ích AEC với bên ngoài[5]
Về văn hóa - xã hội,Việt Nam thúc đẩy trụ cột này trở thành một chân kiềng có tác dụng bổ trợ và gắn kết hữu cơ trong Cộng đồng. Việt Nam chủ động đề xuất sáng kiến, ủng hộ hợp tác trong các lĩnh vực ưu tiên của ASEAN hiện nay, như an sinh xã hội, môi trường, quản lý thiên tai, biến đổi khí hậu và thúc đẩy, bảo vệ quyền của lao động di cư,...
Như vậy là sau năm 2015, ASEAN khởi đầu giai đoạn phát triển mới với tư cách là một Cộng đồng thống nhất với một môi trường hòa bình và an ninh trong khu vực, một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, một xã hội chia sẻ, đùm bọc, có trách nhiệm và hướng tới người dân.
Do vậy, định hướng“chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh”,Việt Nam cần tiếp tục góp phần phát huy sự đoàn kết và thống nhất trong ASEAN, tăng cường xây dựng lòng tin, hướng tới tiếng nói chung đối với các vấn đề khu vực; phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong việc xây dựng cấu trúc khu vực trên cơ sở các chuẩn mực chung của luật pháp quốc tế, các nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực ứng xử của ASEAN.
Cần chủ động tham gia xây dựng Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2015, xác định các nội dung ưu tiên hợp tác ASEAN trong 10 năm tới. Theo hướng đó sẽ góp phần thúc đẩy hiện thực hóa một Cộng đồng ASEAN vững mạnh, gắn kết, phát triển, vì hạnh phúc của nhân dân ASEAN, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.
Thứ tư,Định hướng “mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân”[7]chúng tacần hiểu đây làsự phối hợp nhịp nhàng, có hiệu quả giữa đối ngoại Đảng, đối ngoại Quốc hội và đối ngoại nhân dân với ngoại giao Nhà nước, tạo nên diện mạo đa dạng với nội dung và hình thức phong phú của đối ngoại Việt Nam trong tình hình mới.
Riêng trong đối ngoại Đảng, định hướng này thể hiện sự nhất quán và tiếp tục thực hiện Kết luận số 73 của Bộ Chính trị khóa XI về "tăng cường quan hệ đối ngoại của Đảng trong tình hình mới", hoạt động đối ngoại Đảng tiếp tục được triển khai chủ động, tích cực, đa dạng, đa tầng nấc từ Trung ương đến địa phương, cả kênh song phương và đa phương... trong tình hình mới, Đảng ta cần tập trung vào mấy trọng tâm lớn sau:
Một là, phát huy vai trò chính trị, ngoại giao kênh Đảng, tiếp tục tạo nền tảng chính trị vững chắc cho sự phát triển bền vững, đi vào chiều sâu, thực chất quan hệ giữa nước ta với nước khác, nhất là các nước láng giềng có chung biên giới, các nước đối tác lớn...
Hai là, đối ngoại kênh Đảng đã góp phần quan trọng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa Việt Nam với một số nước, nhất là các nước láng giềng. Trong thời điểm khó khăn,quan hệ ngoại giaogiữa Đảng ta với các đảng đã góp phần hiệu quả tháo gỡ vướng mắc, khai thông bế tắc, giữ nhịp cho quan hệ nhà nước và tổng thể quan hệ chung phát triển ổn định, lành mạnh, đúng hướng.
Ba là, tiếp tục triển khai hoạt động đối ngoại một cách đồng bộ, toàn diện, phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, văn hóa, quốc phòng-an ninh, tạo thành sức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực công tác đối ngoại của cả hệ thống chính trị Việt Nam, bảo vệ vững chắc lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Tăng cường thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại.
Bốn là,tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ đối ngoại đảng, đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả, thiết thực. Chú trọng tới khâu đột phá là quan hệ với các đảng cầm quyền, tham chính, và những đảng có vị trí và vai trò quan trọng trong việc hình thành và triển khai chính sách của các nước đối với Việt Nam. Đồng thời, thông qua kênh quan hệ Đảng, góp phần củng cố đoàn kết nội khối, phát huy vai trò trung tâm, dẫn dắt của ASEAN trong khu vực, đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh.
Năm là, chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả cao vào các hoạt động đa phương chính đảng, theo đó phát huy mạnh mẽ vai trò của Đảng ta tại Hội nghị quốc tế các chính đảng châu Á (ICAPP), các hội nghị, hội thảo của các chính đảng ở các khu vực nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các chính đảng, các lực lượng chính trị đối với công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, đồng thời góp phần vào phong trào tiến bộ trên thế giới.
Quán triệt sâu sắc sự nhất quán về nhữngnội dung, mục tiêu, định hướng chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế trong tình hình mớicủa Đảng được trình bày trong Dự thảo các văn kiện trình tại Đại hội XII là cơ sở để Bộ Ngoại giao, các ban, ngành làm công tác đối ngoại, các cơ quan ngoại vụ địa phương, các cơ quan thông tấn, báo chí làm công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại... nghiên cứu triển khai các trọng tâm đối ngoại trong thời gian tới đưa Việt Nam hội nhập quốc tế thành công./.