Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

NCS. Nguyễn Thị Gấm, ThS. Nguyễn Thanh Tùng, ThS. Phạm Quang Hưng

Kiểm soát chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp là yêu cầu cấp thiết trong quản trị ngân hàng với mục tiêu đảm bảo cho hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả hướng đến các chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro và phù hợp với môi trường hội nhập. Thời gian qua, các ngân hàng đã coi trọng vấn đề quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp và có nhiều biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, song kết quả đạt được vẫn chưa như mong muốn. Việc tìm các giải pháp tích cực nhằm hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp luôn mang tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng lâu dài.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp

Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chính, cơ bản mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Thực tế thời gian qua cho thấy, thu nhập của ngân hàng chủ yếu từ tín dụng, chiếm 70-80% doanh thu trở lên, trong đó tín dụng doanh nghiệp (DN) là chủ yếu.

Tuy nhiên, hoạt động này luôn tiềm ẩn rủi ro, bởi hệ thống thông tin thiếu minh bạch và không đầy đủ, dự báo nhận biết và đo lường rủi ro tín dụng (RRTD) chưa chính xác, hoạt động xử lý RRTD chưa hiệu quả, trình độ quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế, tính chuyên nghiệp của cán bộ ngân hàng chưa cao…

Trong bối cảnh, nền kinh tế đối mặt với nhiều khó khăn; thách thức, rủi ro trong kinh doanh có xu hướng tăng cao và phức tạp ảnh hưởng đến hoạt động của DN. Vì mục tiêu lợi nhuận, các DN có thể sử dụng nguồn vốn vay một cách kém hiệu quả, sai mục đích, thiếu quản lý nguồn vốn vay... dẫn đến thiệt hại không chỉ cho DN mà còn phương hại đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM). RRTD đối với DN không chỉ là nguy cơ cá biệt của mỗi NHTM mà còn là, mối quan tâm của hệ thống ngân hàng trong phạm vi mỗi quốc gia và toàn cầu, ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế.

 Nhìn lại hoạt động quản trị RRTD của các NHTM đối với DN thời gian qua, có thể thấy một số kết quả sau:

- Chất lượng nợ, cơ cấu tín dụng chuyển biến theo chiều hướng tích cực: Phần lớn các NHTM đã triển khai mô hình quản lý nợ xấu, bao gồm các bộ phận chuyên trách quản lý nợ có vấn đề từ trụ sở chính đến các chi nhánh. Nợ nhóm 2, nợ xấu được kiểm soát tốt, điều này cho thấy các biện pháp quản trị RRTD của các NHTM đã có kết quả tích cực so với giai đoạn trước khi thực hiện tái cơ cấu các TCTD theo đề án phê duyệt của Chính phủ, NHNN. Các NHTM đã triển khai các giải pháp như: nâng dần tỷ lệ cho vay có bảo đảm; kiểm soát chặt chẽ dư nợ cho vay một số ngành, lĩnh vực nhạy cảm có độ rủi ro cao là bất động sản và chứng khoán...

- Xây dựng được hệ thống khuôn khổ cơ chế, chính sách tín dụng khá đồng bộ: Hoạt động tín dụng được diễn ra thống nhất trong toàn hệ thống, đảm bảo các giới hạn chấp nhận rủi ro thông qua các tiêu chuẩn cấp tín dụng, cũng như các biện pháp quản lý tín dụng, đảm bảo rằng dù khách hàng quan hệ tín dụng ở bất cứ chi nhánh nào cũng được hưởng lợi các sản phẩm tín dụng như nhau.

Đồng thời, các cá nhân, đơn vị được quyền chủ động thực hiện thông qua việc phân cấp, ủy quyền của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và các cấp có thẩm quyền trên cơ sở phù hợp với môi trường, chất lượng hoạt động, xếp hạng tín dụng của từng đơn vị và năng lực, trình độ, kinh nghiệm quản lý của người được ủy quyền.

- Quản lý RRTD đối với DN đã dần theo hướng áp dụng thông lệ quốc tế: Theo chủ trương của Chính phủ về việc ứng dụng Hiệp ước quốc tế Basel trong hệ thống NHTM Việt Nam (Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về việc phê duyệt đề án phát triển Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020), đến hết năm 2016, Việt Nam thực hiện áp dụng hoàn chỉnh các chuẩn mực quốc tế Basel I và dần dần việc ứng dụng Basel II, Basel III.

- Xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong hoạt động đo lường rủi ro: Hiện nay, hầu hết các NHTM đã xây dựng xong hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Trong đó, phương pháp chấm điểm trong hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV, VCB, Vietinbank là phương pháp rất phổ biến trên thế giới, được các tổ chức định hạng quốc tế như S&P, Moody’s... sử dụng.

Việc xếp hạng khách hàng được thực hiện thông qua việc chấm điểm một bộ các chỉ tiêu liên quan đến tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Hệ thống xếp hạng tín dụng của các ngân hàng này đã sử dụng chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính, được phân tổ đến theo từng cấp. Các chỉ tiêu này có mối quan hệ với nhau, bổ sung lẫn nhau và được lượng hóa tối đa nhằm giảm thiểu các sai sót chủ quan của người đánh giá...

- Hoạt động kiểm tra, kiểm soát được tăng cường: Các NHTM hiện đang có xu hướng thay đổi mô hình kiểm soát của mình, từ mô hình kiểm soát đơn sang mô hình kiểm soát kép, với sự tham gia giám sát của các cổ đông, nhà đầu tư và giám sát của thị trường. Với mô hình, các NHTM sẽ có cách đánh giá khách quan hơn về những rủi ro có thể xảy đến, từ đó kịp thời đưa ra những hạn biện pháp hạn chế sự phát sinh nợ xấu.

Ngoài ra, cơ chế kiểm soát kép cũng đòi hỏi bản thân các NHTM không ngừng nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, đảm bảo các báo cáo tài chính được minh bạch rõ ràng, tăng cường hiệu quả quản trị rủi ro và hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại

Để đạt hiệu quả cao trong hoạt động quản trị RRTD đối với DN tại các NHTM qua phân tích trên có thể kể đến một số giải pháp sau:

Một là, phân tán RRTD đối với DN bằng đa dạng hóa danh mục cho vay: Các NHTM có quy mô nhỏ không nên tập trung các khoản cho vay với một số đối tượng như DNNVV hay các lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán mà nên đa dạng hóa danh mục cho vay. Đa dạng hóa danh mục cho vay có thể thực hiện thông qua việc tăng các chi nhánh ngân hàng, cho phép tăng liên kết ngân hàng.

Đồng thời, đề ra mức tăng trưởng tín dụng hợp lý và cơ cấu lại các thời hạn vay để giảm RRTD đối với DN. Ngân hàng nên chia nguồn tiền của mình vào nhiều loại hình đầu tư tín dụng, nhiều ngành nghề khác nhau cũng như nhiều DN ở những địa bàn khác nhau, qua đó vừa mở rộng được phạm vi hoạt động tín dụng của ngân hàng, vừa đạt được mục đích phân tán rủi ro.

Hai là, xây dựng văn hóa quản trị RRTD đối với DN: Để hạn chế rủi ro thì văn hóa quản trị rủi ro thống nhất và xuyên suốt trong hoạt động của các NHTM là vô cùng cần thiết. Xây dựng văn hóa ngân hàng không thể làm trong một thời gian ngắn mà là một quá trình thực hiện nghiêm túc, bền bỉ, từ cấp trên xuống cấp dưới, từ thế hệ người lao động này sang thế hệ người lao động khác, có tính kế thừa.

Văn hoá quản trị rủi ro của mỗi ngân hàng có những đặc trưng riêng và luôn được bổ sung, hoàn thiện, tuân thủ những nguyên tắc nhất định: Tuân thủ quy trình, quy định văn bản pháp luật và của ngân hàng; Ý thức phòng ngừa rủi ro và giảm thiểu rủi ro là việc phải làm thường xuyên, liên tục, mọi nơi, mọi lúc...

Ba là, xây dựng cơ sở dữ liệu và thông tin về RRTD đối với DN, từng bước hoàn thiện quy trình tín dụng: Các ứng dụng của công nghệ thông tin, cụ thể là công cụ khai phá dữ liệu ứng dụng trong lĩnh vực quản trị RRTD đối với DN được triển khai góp phần quan trọng trong công tác quản trị RRTD đối với DN tại các NHTM.

Tại các bước nếu như công cụ khai phá dữ liệu được ứng dụng hợp lý thì RRTD đối với DN sẽ được phát hiện và ngăn chặn. Khi áp dụng kỹ thuật khai phá dữ liệu vào việc quản trị RRTD đối với DN, hoạt động ngân hàng sẽ đạt hiệu quả cao, góp phần hoàn thiện quy trình tín dụng tại mỗi ngân hàng.

Bốn là, xây dựng và xác định rõ ràng mức khẩu vị rủi ro: Một trong những yêu cầu Basel II là các NHTM phải xây dựng một khung khẩu vị rủi ro đầy đủ đảm bảo các ngân hàng có thể nắm rõ và quản trị các rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.

Khẩu vị rủi ro chỉ ra khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng, xác định rõ loại và độ lớn của những rủi ro mà ngân hàng chấp nhận, từ đó, giúp NHTM xây dựng được các quy định và quy trình phủ hợp để phòng ngừa sớm và có phương án đối phó với những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Ngoài ra, các NHTM cần nâng cao hiệu quả trong công tác dự báo và đo lường rủi ro, nên định hướng chính sách quản trị RRTD đối với DN trong năm hoạt động, từ đó dự báo những rủi ro có khả năng xảy ra.

Năm là, tăng cường giám sát nội bộ để ngăn chặn sự tích tụ của RRTD trong tương lai. Các NHTM cần tăng cường giám sát nội bộ để ngăn chặn sự tích tụ của RRTD đối với DN trong tương lai, bằng cách tránh cho vay quá mức, duy trì tiêu chuẩn cấp tín dụng đúng mức để đảm bảo chất lượng khoản vay.

Đồng thời, cần xây dựng chiến lược dài hạn từ những biện pháp phòng ngừa RRTD đối với DN từ xa như hoàn thiện chính sách tín dụng phù hợp chuẩn mực quốc tế là điều kiện tiên quyết để đảm bảo áp dụng chính sách tín dụng nhất quán và chặt chẽ trong ngân hàng.

Để nâng cao hiệu quả quản trị RRTD đối với DN thì việc thành lập bộ phận rủi ro tại các chi nhánh của ngân hàng là điều hết sức cần thiết. Bộ phận này có đầy đủ thẩm quyền và hoạt động độc lập, tách biệt với bộ phận tín dụng và thẩm định, đóng vai trò kiểm tra, giám sát và tham mưu cho lãnh đạo ngân hàng trước khi quyết định cấp tín dụng…

Sáu là, hoạch định chiến lược quản trị rủi ro an toàn và hiệu quả: Các NHTM phải thường xuyên xem xét, điều chỉnh chính sách tín dụng, chiến lược kinh doanh phù hợp với tình hình kinh tế địa phương của từng chi nhánh trực thuộc trong điều kiện nền kinh tế cụ thể, chú trọng đến ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô để hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra cho ngân hàng.

Phải có sự tách biệt giữa hoạt động nghiệp vụ chấp nhận rủi ro và giám sát rủi ro. RRTD đối với DN phải được định lượng và định tính cụ thể bằng các mô hình lượng hóa, kết hợp với mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ hiện hành. Từ đó đánh giá, phân loại xếp hạng DN chuẩn xác hơn, hạn chế sai lệch thông tin từ phía người chấm điểm, làm cơ sở tham chiếu cho việc cấp tín dụng…

Bảy là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Các NHTM cần quan tâm đầu tư đào tạo từ cơ bản đến chuyên sâu về nghiệp vụ, từng đối tượng khách hàng có đặc điểm đặc thù về sản xuất kinh doanh cụ thể. Cần tổ chức đội ngũ giảng dạy là các chuyên gia bên ngoài, các chuyên viên tín dụng có kinh nghiệm của ngân hàng, biên soạn và cập nhật giáo trình giảng dạy mang tính thực tiễn, trang bị tốt cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy... Cùng với đó, cần có chế độ đãi ngộ, khen thưởng hợp lý, công bằng: đối với nhân viên có thành tích xuất sắc thì nên được biểu dương, khen thưởng cả về mặt vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả mà họ mang lại…

Tám là, hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín nhiệm khách hàng DN: Khách hàng DN có báo cáo tài chính trong 2 năm mới đủ điều kiện xếp hạng tín dụng nội bộ, vì vậy ngân hàng cần sớm hoàn thiện các tiêu chí để tiến tới xây dựng chương trình xếp hạng tín dụng nội bộ đối với đối tượng là khách hàng DN không có báo cáo tài chính 2 năm.

Các ngân hàng cần hoàn thiện mô hình tính điểm dựa trên sự kết hợp các phương pháp thống kê, phân tích, định lượng, xây dựng các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính cho từng ngành nghề cũng như tính trọng số mức độ ảnh hưởng đến từng chỉ tiêu tính điểm. Các bảng kết quả chỉ tiêu cần được điều chỉnh hợp lý khi thị trường biến động.

Ngoài việc chấm điểm khách hàng theo quý hoặc khi có sự biến động bất cứ thông tin về phía khách hàng, ngân hàng cần kết hợp và mở rộng các nguồn thông tin khác như: cơ quan thuế, các tổ chức tín dụng khác… để có sự đánh giá chính xác trong quá trình xếp hạng.        

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc hội (2010), Luật Các TCTD;

2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của các TCTD, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng;

3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Văn bản số 22/VBHN-NHNN ngày 04/6/2014 quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD;

4. Nguyễn Thị Gấm (2016), Xử lý tài sản bảo đảm trong tranh chấp hợp đồng tín dụng tại các NHTM Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, Số 13, tháng 7/2016;

5. Lê Thị Huyền Diệu (2010), “Luận cứ khoa học về xác định mô hình quản lý RRTD tại hệ thống NHTM Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ kinh tế;

6. Nguyễn Đức Tú (2012), “Quản lý RRTD của NHTM cổ phần công thương Việt Nam”, Luận án tiến sỹ kinh tế.