Sở hữu nhà ở của người nước ngoài, còn nhiều điều cần tháo gỡ
Luật Nhà ở 2014 đã chính thức có hiệu lực từ đầu tháng 7, trong đó câu chuyện được nhiều người quan tâm nhất là quy định cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua và sở hữu nhà tại Việt Nam.
Luật đã tạo điều kiện cho người nước ngoài được mua nhà. Tuy nhiên, để đảm bảo tính minh bạch và thông thoáng khi áp dụng Luật Nhà ở vào cuộc sống thì còn nhiều điều cần tháo gỡ.
Theo quy định, "Điều kiện đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam" (khoản 1 Điều 8);
"Đối với cá nhân nước ngoài quy định tại điểm c khoản 1 Điều 159 của Luật này thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam và không thuộc diện được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo quy định của pháp luật" (khoản 3 Điều 160);
"Tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thông qua các hình thức đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án; Mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở, trừ khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của Chính phủ" (khoản 2 Điều 159);
"Chính phủ quy định chi tiết giấy tờ chứng minh đối tượng, điều kiện tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam" (khoản 4 Điều 160).
Sau gần 1 tháng Luật được áp dụng vào thực tế, người bán nhà lẫn người mua nhà còn nhiều lúng túng.
Về việc xác nhận nguồn gốc Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan có thẩm quyền xác nhận nguồn gốc Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài là Sở Tư pháp cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (hiện nay, TP. Hà Nội và TP. HCM có Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, nhưng cơ quan này không có thẩm quyền xác nhận nguồn gốc Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài).
Căn cứ để xác nhận nguồn gốc Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài chủ yếu là khai sinh, thẻ căn cước, tờ khai gia đình, chứng minh nhân dân, hộ khẩu... Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử của đất nước, có nhiều người Việt Nam ở nước ngoài nay không còn lưu giữ được hồ sơ hộ tịch, nhiều trường hợp hồ sơ hộ tịch gốc cũng không còn lưu trữ tại các cơ quan có thẩm quyền trong nước.
Do vậy, cần phải có giải pháp phù hợp để xử lý các trường hợp nêu trên, tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài có cơ hội được mua và sở hữu nhà tại quê hương.
Trước tháng 5/1975, ở phía Nam có phương thức Tòa án Dân sự được ra "án thế vì khai sinh" trên cơ sở khai trình của những người có liên quan, có hai nhân chứng có tuyên thệ, cam kết chịu trách nhiệm, để xử lý các trường hợp chưa có khai sinh hoặc không thể về quê gốc để trích lục khai sinh.
Tại kỳ họp vừa qua, Quốc hội đã thảo luận Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), dự kiến sẽ được Quốc hội tiếp tục thảo luận và thông qua trong kỳ họp cuối năm 2015, Hiệp hội Bất động sản TP. HCM đã kiến nghị bổ sung chế định giao cho Tòa Dân sự thẩm quyền ban hành "án thế vì khai sinh" để giải quyết hợp pháp hóa các trường hợp chưa có khai sinh, hoặc không còn hồ sơ hộ tịch gốc, trong đó có mục đích nhằm xác nhận nguồn gốc Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài để góp phần thực hiện đầy đủ quy định của Luật Nhà ở 2014 cho phép người Việt Nam ở nước ngoài được mua và sở hữu nhà như người trong nước.
Hiệp hội cũng đề nghị Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài TP. Hà Nội, TP. HCM được trao là những cơ quan có thể xác nhận nguồn gốc Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài.
Về quy định cá nhân nước ngoài được mua và sở hữu nhà tại các dự án nhà ở thương mại (trừ khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của Chính phủ) khi được phép nhập cảnh vào Việt Nam.
Theo quy định tại khoản 4.b Điều 7 Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Nhà ở, "trường hợp bán hoặc tặng cho nhà ở cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì bên mua, bên nhận tặng cho chỉ được sở hữu nhà ở trong thời hạn còn lại...".
Dự thảo quy định này không phù hợp và không đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của người nước ngoài khi mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Hiệp hội đề nghị cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam khi mua lại nhà ở của người nước ngoài thì được quyền sở hữu nhà ở với thời hạn tối đa 50 năm.
Cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 4.a Điều 7 Dự thảo Nghị định cho phép cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư nước ngoài khi mua lại nhà ở của người nước ngoài thì được sở hữu nhà ở ổn định lâu dài, để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.
Mặt khác, tại Điều 75, Dự thảo Nghị định quy định: "Khu vực tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở" cần được sửa đổi theo hướng Chính phủ công bố khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh mà người nước ngoài không được mua và sở hữu nhà ở; Chính phủ có thể ủy quyền cho Bộ Quốc phòng, Bộ Công an công bố danh mục các khu vực này và không nên quy định thêm quy trình các Bộ này "Có văn bản thông báo cho Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh để chỉ đạo Sở Xây dựng xác định cụ thể từng dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại trên địa bàn không cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở" như trong Dự thảo Nghị định, vì có thể làm gia tăng thủ tục hành chính không cần thiết.
Về quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài khi hết thời hạn sở hữu nhà ở thì có thể được gia hạn thêm theo quy định của Chính phủ nếu có nhu cầu (theo khoản 2.c Điều 161 Luật Nhà ở), Hiệp hội đề nghị bổ sung dự thảo Nghị định quy định khi được gia hạn quyền sở hữu nhà ở thì tổ chức, cá nhân nước ngoài không phải chịu thêm chi phí nào khác ngoài lệ phí hành chính.
Về chuyển khoản tiền mua nhà ở, về vay tín dụng để mua nhà ở, đề nghị Ngân hàng Nhà nước và Bộ Xây dựng thống nhất hướng dẫn tổ chức, cá nhân nước ngoài về việc chuyển khoản tiền mua nhà ở từ ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam để mua nhà; hoặc thủ tục vay của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam để mua nhà ở.
Đối với thời hạn cấp visa cho cá nhân nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Để tạo điều kiện cho cá nhân nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam, nên chăng Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Xây dựng cần thống nhất cấp visa cho người nước ngoài với thời hạn dài, có thể khoảng từ 1 - 3 năm, được xuất nhập cảnh nhiều lần, phù hợp với thông lệ quốc tế.