Sửa Luật Sở hữu trí tuệ: Nâng cao mức độ bảo hộ

Theo Gia Nguyễn/diendandoanhnghiep.vn

Không chỉ khuyến khích đổi mới sáng tạo cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, việc sửa Luật Sở hữu trí tuệ còn được cho sẽ tạo ra hành lang pháp lý đủ mạnh nâng cao mức độ bảo hộ…

Việc sửa Luật SHTT được cho sẽ tạo ra hành lang pháp lý đủ mạnh nâng cao mức độ bảo hộ. Nguồn: Internet
Việc sửa Luật SHTT được cho sẽ tạo ra hành lang pháp lý đủ mạnh nâng cao mức độ bảo hộ. Nguồn: Internet

Mặc dù đã tạo ra những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước trong những năm qua, thế nhưng, Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) hiện hành cũng cho thấy nhiều tồn tại, bất cập, hạn chế nhất định. Đó là bất cập trong quy định về chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan; bất cập trong quy định hiện hành về việc khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách Nhà nước, dẫn đến hạn chế khả năng thương mại hóa các đối tượng này;…

Chưa kể, hoạt động thực thi quyền SHTT cũng đang gặp phải không ít khó khăn, thách thức do hành vi xâm phạm quyền SHTT ngày càng tinh vi, phức tạp và diễn ra ngày càng phổ biến trên môi trường mạng. Cùng với đó, trong việc tuân thủ những điều ước quốc tế, cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) có yêu cầu cao về thực thi quyền SHTT mà Việt Nam tham gia gần đây như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA)…

Theo thống kê của Cục SHTT, trong giai đoạn 2016-2020, trung bình hàng năm có khoảng 5.600 sáng chế nước ngoài nộp đơn đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, trong khi đó, theo công bố của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO), số lượng sáng chế được đăng ký bảo hộ trên toàn thế giới trong những năm gần đây trung bình là trên 3 triệu sáng chế/năm.

Các chuyên gia cho rằng, cơ chế bảo hộ quyền SHTT vốn dĩ được coi là một công cụ để khuyến khích, thúc đẩy sáng tạo, đổi mới, chống cạnh tranh không lành mạnh để đưa các sản phẩm sáng tạo, đặc biệt là công nghệ mới để phát triển kinh tế, phục vụ đời sống xã hội. Việc sửa Luật không chỉ đáp ứng cam kết về SHTT trong các FTA thế hệ mới, mà còn góp phần tạo ra một môi trường tốt có khả năng thu hút chuyển giao công nghệ của nước ngoài để nâng cao chất lượng sản phẩm quốc nội, tạo điều kiện từng bước nâng cao năng lực công nghệ nội sinh, tạo thuận lợi cho cả doanh nghiệp Việt Nam trong việc hưởng lợi ích đối với thành quả đầu tư cho hoạt động sáng tạo.

Và tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 2 của Quốc hội, nhiều đại biểu cũng tán thành việc sửa đổi Luật và cho rằng việc sửa đổi luật sẽ khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập của Luật hiện hành, ngoài thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, tăng cường khai thác và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, việc sửa Luật cũng được cho sẽ tạo ra được hành lang pháp lý nâng cao mức độ bảo hộ.

Trong đó, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Lê Minh Trí phân tích, tại điều khoản của Hiệp định CPTPP về công nhận chỉ dẫn địa lý có quy định rằng các bên thừa nhận chỉ dẫn địa lý có thể bảo hộ thông qua hệ thống nhãn hiệu; hoặc một hệ thống riêng; hoặc các biện pháp pháp lý khác. Như vậy, có thể hiểu việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý cũng tương tự như việc bảo hộ nhãn hiệu.

Ở Việt Nam, từ trước đến nay chính sách bảo hộ đối với hai đối tượng này đều có sự tương đồng. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 155 và khoản 8 Điều 157 bãi bỏ nội dung dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 226 của Bộ luật Hình sự là đảm bảo sự thống nhất về chính sách pháp luật, chính sách bảo hộ quyền SHTT và chính sách xử lý hành vi xâm phạm quyền.

Theo Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, hành vi xâm phạm quyền sở hữu đối với chỉ dẫn địa lý không chỉ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền mà còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Do đó, việc giao quyền chủ động yêu cầu khởi tố vụ án cho chủ sở hữu quyền, mặc dù ở khía cạnh nhất định có thể bảo vệ được chủ sở hữu quyền nhưng lại làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.

“Trong thời gian tới, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới và Việt Nam sẽ ngày càng được chú trọng. Vì vậy, việc chú trọng hơn so với yêu cầu của Hiệp định CPTPP cũng thể hiện Việt Nam coi trọng bảo hộ quyền SHTT, tạo môi trường thuận lợi, an toàn và thu hút. Việc sửa đổi cả bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý trong thời điểm này là hoàn toàn phù hợp”, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đánh giá.

Được biết, Dự thảo Luật SHTT sửa đổi sẽ đi vào 7 nhóm chính sách lớn, gồm: Đảm bảo quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan; khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách Nhà nước; tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan và thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp; đảm bảo mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng trong bảo hộ quyền SHTT; tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về SHTT; nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo vệ quyền SHTT; bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo hộ SHTT trong quá trình hội nhập.

Trong Tờ trình, Chính phủ cũng xin ý kiến của Quốc hội đối với 2 nội dung chính: Quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách Nhà nước và xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền SHTT.

Việc sửa đổi các quy định pháp luật trong lĩnh vực SHTT sẽ góp phần đưa SHTT thành công cụ nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, là động lực của kinh tế tri thức, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước. Dự thảo Luật SHTT được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa XV và sẽ trình Quốc hội thông qua vào Kỳ họp thứ 3.