Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 5/2020

Giáo dục nghề nghiệp là một trong những hình thức đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Một trong những yếu tố có tính chất quyết định đến nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô giáo dục nghề nghiệp là nguồn lực tài chính. Bài viết trao đổi về thực trạng nguồn lực tài chính cho giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam hiện nay và đề xuất những giải pháp nhằm huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính cho hoạt động này.

Học sinh Trường Trung cấp nghề Kỹ thuật công nghệ Hùng Vương thực hành tại trường. Nguồn: internet
Học sinh Trường Trung cấp nghề Kỹ thuật công nghệ Hùng Vương thực hành tại trường. Nguồn: internet

Nguồn lực cho giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam hiện nay

Theo Luật Ngân sách nhà nước, Luật Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) và các văn bản hướng dẫn, nguồn tài chính của các cơ sở GDNN bao gồm nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) và các nguồn tài chính ngoài NSNN. Báo cáo đánh giá việc thực hiện chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020 của Viện Khoa học Giáo dục nghề nghiệp, (Tổng cục GDNN) cho thấy, nguồn tài chính đầu tư cho GDNN trong giai đoạn 2011-2019 từ NSNN chiếm khoảng 85,65%; đóng góp của người dân thông qua học phí khoảng 10,41%; thu từ dịch vụ sự nghiệp của các cơ sở dạy nghề (CSDN) là 1,08%; đầu tư, tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khoảng 2,86%.

Ngân sách nhà nước cho giáo dục nghề nghiệp

NSNN cho đào tạo nghề nghiệp thực hiện chi cho 3 nội dung chủ yếu gồm: nguồn kinh phí thường xuyên; vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn chương trình mục tiêu và chương trình mục tiêu quốc gia. Nguồn ngân sách cho GDNN được ưu tiên trong tổng chi NSNN dành cho giáo dục, đào tạo và được phân bổ theo nguyên tắc công khai, minh bạch, kịp thời.

Hàng năm, NSNN đều bố trí kinh phí cho lĩnh vực giáo dục đào tạo bảo đảm tỷ lệ theo Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương 8 (Khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Theo số liệu thống kê, tổng chi thường xuyên ngân sách cho dạy nghề ghi nhận trên hệ thống giai đoạn 2011-2017 khoảng 41 nghìn tỷ đồng, tổng chi thường xuyên ngân sách cho GDNN (bao gồm cả các cơ sở thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo chuyển sang) ghi nhận trong giai đoạn 2018-2019 khoảng 39 nghìn tỷ đồng. Tổng chi cho dạy nghề và GDNN giai đoạn 2012-2019 là 80 nghìn tỷ đồng, trong đó các bộ, cơ quan trung ương là 25,9 nghìn tỷ đồng; các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là 54,1 nghìn tỷ đồng.

Từ năm 2017 đến nay, định mức phân bổ chi sự nghiệp đào tạo và dạy nghề, tùy theo từng vùng được điều chỉnh tăng bình quân 1,76 lần so với giai đoạn 2011 - 2016. NSNN đã tập trung đầu tư cho các cơ sở GDNN trọng điểm, nghề trọng điểm, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý; phát triển chương trình thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề; Việc làm - dạy nghề và an toàn lao động; đào tạo nghề cho lao động nông thôn…

Nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước

Nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho GDNN bao gồm các khoản: Học phí, các khoản do doanh nghiệp đóng góp; các khoản thu từ nghiên cứu khoa học, lao động, sản xuất dịch vụ, các khoản đầu tư tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước.

Các nguồn tài chính ngoài NSNN cũng tăng dần qua từng năm. Giai đoạn 2011–2018, nguồn thu từ học phí ước đạt 14.534 tỷ đồng; nguồn thu từ hoạt động dịch vụ của cơ sở GDNN gồm: Thu từ hợp đồng đào tạo với các tổ chức trong và ngoài nước, thu từ các hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thực hành, thực tập, thí nghiệm; từ các hợp đồng dịch vụ khoa học công nghệ... ước đạt 1.283 tỷ đồng; các khoản đầu tư, tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước từ năm 2011– 2019 khoảng 3.426,6 tỷ đồng.

Tuy nhiên, các nguồn tài chính ngoài NSNN so với tổng chi ngân sách cho dạy nghề còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Các cơ sở GDNN vẫn chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vốn từ NSNN; chưa có biện pháp tăng tỷ lệ huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách về liên doanh, liên kết…

Giải pháp huy động và nâng cao hiệu quả nguồn lực tài chính cho giáo dục nghề nghiệp

Để huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính cho GDNN trong thời gian tới, cần tập trung một số giải pháp sau:

Một là, đổi mới cơ chế phân bổ, giao dự toán NSNN cho các cơ sở GDNN gắn với những ngành, lĩnh vực quan trọng. Hoàn thiện hệ thống định mức phân bổ tài chính đầu tư cho lĩnh vực GDNN phù hợp, gắn chặt với trao quyền tự chủ là tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDNN.

Hai là, thực hiện tái cấu trúc hệ thống các cơ sở GDNN công lập, bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác quản trị hoạt động GDNN trong các cơ sở GDNN công lập; đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa, nhất là xã hội hóa nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động GDNN. Thông qua hợp tác liên doanh, liên kết huy động nguồn vốn để tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ, cải thiện thu nhập cho cán bộ, nhà giáo, tạo động lực để nâng cao chất lượng đào tạo.

Ba là, tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động trong phát triển GDNN, có cơ cở pháp lý cho việc gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động. Hoàn thiện các quy định để doanh nghiệp là chủ thể của GDNN, được tham gia tất cả các công đoạn trong quá trình đào tạo; chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần” và hướng tới chỉ đào tạo “những gì thị trường sẽ cần”.

Bốn là, gia tăng các khoản thu hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong các cơ sở GDNN công lập. Để có thể thực hiện chủ trương tận dụng các cơ sở vật chất, trang thiết bị của trường làm ra nhiều sản phẩm có thể xã hội hóa. Các cơ sở GDNN công lập một mặt phải nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng của thị trường về sản phẩm, mặt khác soát xét lại năng lực về nhân lực, về trang thiết bị, từ đó, thực hiện quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm cung cấp cho thị trường.

Năm là, hỗ trợ học sinh, sinh viên tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh viên nhằm mục đích sử dụng nguồn lực của Nhà nước để cung cấp tín dụng ưu đãi cho học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; không để học sinh, sinh viên phải bỏ học vì lý do không có khả năng đóng học phí và trang trải các nhu cầu sinh hoạt tối thiểu.

Sáu là, các địa phương cần tiếp tục ưu tiên phân bổ chi ngân sách cho GDNN trong tổng chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Đồng thời, ban hành các văn bản có liên quan trong lĩnh vực GDNN theo nhiệm vụ được giao tại các luật, nghị định, quyết định và thông tư của các bộ quản lý chuyên ngành, tạo hành lang pháp lý để các cơ sở GDNN triển khai thực hiện.        

Tài liệu tham khảo:

Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (2019), Báo cáo đánh giá việc thực hiện Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020 ;

Trần Thế Lữ (2018), Luận án Tiến sỹ kinh tế, Huy động nguồn tài chính tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập ở Việt Nam, Học viện Tài chính;

Tạp chí Tài chính số 3/2014: Ðổi mới cơ chế quản lý tài chính dạy nghề;

Tổng cục Dạy nghề (2012), Tài chính cho đào tạo nghề ở Việt Nam.