Thúc đẩy năng suất lao động cho tăng trưởng bền vững ở Việt Nam
Sáng 29/11/2022, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy năng suất lao động cho tăng trưởng bền vững ở Việt Nam”. Các ý kiến tại Hội thảo cho thấy, xây dựng Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động là một nhiệm vụ quan trọng, vừa nhằm sớm thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, vừa là trọng tâm chiến lược góp phần cơ cấu lại, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương chia sẻ, sau hơn 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế - xã hội. Ngay cả trong thời kỳ khó khăn do dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng dương. Quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng theo hướng cải thiện chất lượng tăng trưởng. Đáng chú ý hơn, ở Việt Nam, thành quả tăng trưởng kinh tế đã đi đôi với công bằng thay vì phải đánh đổi công bằng để tăng trưởng nhanh.
Những thành công trong quá khứ đã thúc đẩy Việt Nam hướng tới các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống cao hơn. Việt Nam cũng xác định các trụ cột chính để hiện thực hóa khát vọng vươn cao, trong đó, nhấn mạnh duy trì tăng trưởng cao dựa trên thúc đẩy năng suất lao động (NSLĐ), nuôi dưỡng nền kinh tế đổi mới sáng tạo, để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế gắn với độc lập, tự chủ.
Với những yêu cầu đó, tăng NSLĐ là yếu tố quan trọng đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, và là điều kiện tiên quyết để giúp Việt Nam thu hẹp trình độ phát triển với các nước trong khu vực, hướng tới mục tiêu là nước phát triển với thu nhập cao vào 2045.
"Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm cụ thể nhằm đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao NSLĐ, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tại Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2022, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ", Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết.
Tại Hội thảo, Báo cáo của CIEM cũng cho thấy, trong giai đoạn 2011-2021, khung chính sách nền tảng cho cải thiện NSLĐ đã được ban hành theo nhiều nhóm hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao năng lực cạnh tranh; nâng cao năng suất dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và các chính sách cụ thể hỗ trợ ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Quan trọng hơn cả, tư duy chính sách về mô hình, hoạt động kinh tế mới đã bước đầu hoàn thiện, nhấn mạnh đến NSLĐ, đổi mới sáng tạo và động lực cho doanh nghiệp.
Tuy vậy, thể chế, chính sách vẫn chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến hiệu quả phối hợp thực hiện các giải pháp và chưa xác định rõ ràng vai trò, trách nhiệm của Bộ, ngành, địa phương trong đảm bảo thực hiện thực chất và hiệu quả.
Ở cấp độ tổng thể nền kinh tế, NSLĐ của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể, tăng 2,5 lần, từ 70,3 triệu đồng/lao động năm 2011 lên 171,8 triệu đồng/lao động năm 2021. Tốc độ tăng trưởng NSLĐ trong 10 năm 2011-2020 đạt 6,0%, trong đó, giai đoạn 2011-2015 đạt 5,5% và giai đoạn 2016-2020 đạt 6,4% (vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 5,0%). Tuy vậy, NSLĐ của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và chênh lệch có xu hướng gia tăng.
Trong khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, mặc dù NSLĐ thấp nhưng tốc tăng tăng tương đối cao do quá trình chuyển dịch cơ cấu. Trong khi đó, NSLĐ của khu vực công nghiệp-xây dựng thấp và không ổn định, chủ yếu do tham gia ở phân khúc giá trị gia tăng thấp và sử dụng nhiều lao động, chưa thể hiện vai trò dẫn dắt và thúc đẩy tăng trưởng. NSLĐ của khu vực dịch vụ giữ xu hướng tăng nhưng thiếu ổn định và dựa nhiều vào các ngành dịch vụ truyền thống.
Theo vùng kinh tế trọng điểm, NSLĐ không đồng đều, tập trung ở một số thành phố lớn (Hà Nội, TP. Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu...) và chủ yếu ở hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và phía Nam. Đáng lưu ý, tốc độ tăng NSLĐ có xu hướng giảm dần, các địa phương “dẫn dắt” trong vùng chưa phát huy hết vai trò lan tỏa, chưa đóng vai trò thúc đẩy và lôi kéo tăng trưởng của vùng.
NSLĐ của khu vực doanh nghiệp đạt 309,9 triệu đồng/lao động năm 2020, tăng 93,1% so với năm 2011; mức chênh lệch NSLĐ giữa các loại hình doanh nghiệp ngày càng tăng. Những rào cản chính đối với doanh nghiệp trong thúc đẩy NSLĐ bao gồm (i) sự bất định khi đầu tư vào công nghệ; (ii) năng lực đổi mới phản ánh qua chất lượng quản lý còn yếu kém; (iii) lực lượng lao động thiếu những kỹ năng cần thiết và (iv) thiếu nguồn vốn đầu tư.
Tại Hội thảo, các đại biểu cũng thống nhất và nhận định, việc xây dựng Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ là một nhiệm vụ quan trọng, vừa có ý nghĩa thời sự nhằm sớm thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững, vừa là trọng tâm chiến lược nhằm góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và giúp Việt Nam “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên” các quốc gia trong khu vực.
Theo đó, Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ hướng tới mục tiêu coi NSLĐ là động lực, nền tảng cho tăng trưởng nhanh, bền vững; trên cơ sở tận dụng hiệu quả các cơ hội của Cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số và thông qua thúc đẩy liên kết vùng và phát triển vùng; từ đó góp phần gia tăng khả năng cạnh tranh, mức độ độc lập, tự chủ và sức chống chịu của nền kinh tế.
Cụ thể, Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ dự kiến đặt ra một số chỉ tiêu như: (i) Tốc độ tăng NSLĐ bình quân từ 6,5-7,0%/năm; tốc độ tăng NSLĐ của các vùng kinh tế trọng điểm và 05 thành phố lớn cao hơn trung bình cả nước; (ii) Nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng; (iii) Phấn đấu nằm trong nhóm hàng đầu của ASEAN về tốc độ tăng NSLĐ vào năm 2030; và (iv) Năng lực Đổi mới sáng tạo (của WIPO) thuộc nhóm 40 nước đứng đầu; Chính phủ điện tử (của Liên hợp quốc) thuộc nhóm 60 nước đứng đầu.