Tránh chồng chéo trong kiểm tra, giám sát, kiểm soát phương tiện vận tải xuất nhập cảnh
Để tránh chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, tránh gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp và nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, Bộ Tài chính đã đề nghị Bộ Quốc phòng sửa đổi quy định tại Nghị định số 112/2014/NĐ-CP ngày 21/11/2014 của Chính phủ về quản lý cửa khẩu biên giới đất liền để đảm bảo phù hợp với chủ trương của Đảng, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Luật Hải quan và Luật Biên phòng Việt Nam.
Gửi kiến nghị đến Quốc hội, cử tri tỉnh Hà Tĩnh đề nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định số 112/2014/NĐ-CP ngày 21/11/2014 của Chính phủ quy định về quản lý cửa khẩu biên giới đất liền để tránh chồng chéo, bất cập cho việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kiểm soát và thực hiện thủ tục đối với phương tiện vận tải xuất nhập cảnh của cơ quan hải quan, tránh gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.
Về nội dung này, Bộ Tài chính đã dẫn chứng quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 6 Nghị định số 112/2014/NĐ-CP. Theo đó, Bộ đội Biên phòng cửa khẩu có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại cửa khẩu thực hiện thủ tục biên phòng và công tác kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động xuất cảnh, nhập cảnh của người, phương tiện; hoạt động quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia; phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; thực hiện công tác đối ngoại quân sự, đối ngoại biên phòng.
Nghị định số 112/2014/NĐ-CP do Bộ Quốc phòng chủ trì soạn thảo, hiện đang được sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định quy định "Bộ đội Biên phòng thực hiện kiểm soát hoạt động xuất cảnh, nhập cảnh đối với người; xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập đối với phương tiện vận tải".
Theo đó, việc kiểm soát phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh hiện nay do cơ quan Hải quan và Bộ đội Biên phòng cùng thực hiện là không phù hợp với chủ trương của Đảng, các Điều ước quốc tế, quy định của Luật Biên phòng Việt Nam và Luật Hải quan.
Bộ Tài chính cho biết, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã nhấn mạnh giải pháp: “Rà soát, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo để một tổ chức, một người có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng một việc chỉ do một tổ chức, một người chủ trì và chịu trách nhiệm chính”.
Tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới tiếp tục khẳng định giải pháp này là một trong các giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động của Chính phủ; chính quyền địa phương, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.
Trong đó, Nghị quyết nêu rõ: “Thực hiện nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cơ quan có liên quan phối hợp thực hiện; từng bước xoá bỏ cơ chế phối hợp liên ngành, gắn với việc xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu”.
Về điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia, Công ước Quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan 1999 (Việt Nam là thành viên của Công ước) quy định, mọi hàng hóa, kể cả phương tiện vận tải, nhập vào hay rời khỏi lãnh thổ Hải quan, bất kể là có phải chịu thuế hải quan và thuế khác hay không, đều là đối tượng kiểm tra Hải quan.
Khoản 3, Điều 34, Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới đất liền giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã nêu rõ trách nhiệm của cơ quan hải quan. Theo đó, cơ quan hải quan cửa khẩu mỗi nước thực hiện các nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại cửa khẩu nước mình làm thủ tục, kiểm tra, giám sát hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, vật phẩm; làm thủ tục xuất, nhập cảnh cho phương tiện tại cửa khẩu biên giới; thực hiện kiểm soát phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hóa, vật phẩm qua biên giới. Đồng thời, phối hợp với cơ quan hải quan cửa khẩu nước kia giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động xuất, nhập hàng hóa, vật phẩm, phương tiện qua cập cửa khẩu hai nước.
Về quy định tại các văn bản Luật hiện hành, Khoản 5, Điều 14, Luật Biên phòng Việt Nam quy định nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng kiểm soát xuất nhập cảnh tại cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý và kiểm soát qua lại biên giới theo quy định của pháp luật.
Khoản 2, Điều 15, Luật Biên phòng Việt Nam quy định quyền hạn của Bộ đội Biên phòng là kiểm tra, kiểm soát phương tiện khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, xử lý phương tiện vi phạm pháp luật ở khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
Như vậy, theo quy định nêu trên tại Luật Biên phòng Việt Nam thì Bộ đội Biên phòng chỉ thực hiện kiểm tra, kiểm soát phương tiện khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Luật Hải quan đã giao cơ quan hải quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với phương tiện xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh tại Điều 1, Điều 2, Điều 7, Điều 12, Điều 35, Điều 88. Theo đó, trong địa bàn hoạt động hải quan thì cơ quan hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát, kiểm soát đối với phương tiện vận tải và xử lý vi phạm pháp luật về hải quan.
Trường hợp hàng hóa, phương tiện vận tải chưa đưa ra khỏi địa bàn hoạt động hải quan mà cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện có hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới thì cơ quan, tổ chức, cá nhân đó báo ngay cho cơ quan hải quan để kiểm tra, xử lý. Thủ tục kiểm tra, giám sát, kiểm soát đối với phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh đã được quy định tại Nghị định số 08/2015/NĐ-CP ngày 21/01/2015 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 59/2018/NĐ-CP của Chính phủ.
Để tránh chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, tránh gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, tại Công văn số 9471/BTC-TCHQ ngày 19/9/2022, Bộ Tài chính đã đề nghị Bộ Quốc phòng sửa đổi quy định tại Nghị định số 112/2014/NĐ-CP để đảm bảo phù hợp với chủ trương của Đảng, phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, phù hợp với Luật Hải quan, Luật Biên phòng Việt Nam.
Đồng thời, Bộ Tài chính cũng có ý kiến đề nghị bãi bỏ một số nội dung quy định tại Quyết định số 15/2019/QĐ-TTg ngày 28/3/2019 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện thủ tục biên phòng điện tử tại các cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý và Nghị định số 34/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 của Chính phủ về Quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.