Văn hóa là động lực quan trọng để phát triển kinh tế


Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn coi trọng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh tại Hội nghị văn hóa toàn quốc vào tháng 11/2021: “Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước”(1).

Du khách trải nghiệm làm tranh dân gian Đông Hồ tại làng nghề Đông Hồ huyện Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh). Nguồn: toquoc.vn
Du khách trải nghiệm làm tranh dân gian Đông Hồ tại làng nghề Đông Hồ huyện Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh). Nguồn: toquoc.vn

Về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế

Thứ nhất, văn hóa và kinh tế có mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời. Xét trong chỉnh thể các giá trị mà loài người sáng tạo ra, giữa văn hóa và kinh tế có mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời; đó là mối quan hệ giữa tổng thể và bộ phận; trong đó, văn hóa là một chỉnh thể, là tổng hòa của các giá trị tinh thần và giá trị vật chất mà con người làm nên, còn kinh tế là một bộ phận trong số các thành tố làm nên văn hóa. Nói cách khác, những giá trị tinh thần mà con người sáng tạo ra được gọi là văn hóa tinh thần, còn những giá trị vật chất, cũng do con người tạo dựng, được gọi là văn hóa vật chất. Cách phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi hai loại văn hóa đó luôn nằm trong một chỉnh thể thống nhất, rất khó phân biệt, tách bạch, và cả hai loại trên tạo nên một nền văn hóa. Theo nghĩa đó, hoạt động kinh tế trực tiếp tạo dựng nên nền văn hóa vật chất, là một bộ phận quan trọng của văn hóa vật chất. Tuy nhiên, hoạt động kinh tế cũng tạo dựng nên nền văn hóa tinh thần một cách gián tiếp, bởi là cái vỏ vật chất, là phương tiện để văn hóa tinh thần có thể tiếp xúc duy trì, tồn tại và phát triển; ngược lại, văn hóa tinh thần góp phần quan trọng vào việc cung cấp những kinh nghiệm, hiểu biết, tri thức cần thiết để thúc đẩy hoạt động kinh tế.

Lực lượng sản xuất càng phát triển thì mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa càng gắn bó khăng khít. Từ góc độ này, nền kinh tế tương lai sẽ là nền kinh tế văn hóa và suy cho cùng, cạnh tranh kinh tế chính là cạnh tranh văn hóa. Nếu có ý thức sâu sắc về các vấn đề văn hóa, hiểu rõ bản chất của văn hóa, biết kết hợp giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại thì có thể thấy trước tương lai khả quan của nền kinh tế. Ở góc độ khác, chỉ có nền kinh tế phát triển mà không có nền văn hóa tiên tiến thì quốc gia chưa thực sự phát triển, nói cách khác, nếu chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà không đầu tư đúng mức cho phát triển văn hóa thì sự phát triển kinh tế sẽ không bền vững.

Thứ hai, văn hóa thẩm thấu và được thể hiện trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Từ nguồn nhân lực trong hoạt động kinh tế đến việc xử lý, giải quyết, tổ chức triển khai các hoạt động kinh tế, từ thiết kế và sản xuất sản phẩm đến trao đổi, phân phối và sử dụng sản phẩm - tất cả đều thấm đẫm yếu tố văn hóa, bởi lẽ, toàn bộ quá trình hoạt động kinh tế đều là hoạt động của con người, thuộc về con người, vì con người. C. Mác cho rằng, lao động trước hết là quá trình con người sử dụng chính hoạt động của mình để tác động, điều chỉnh và cải tạo tự nhiên. Nói một cách đơn giản, lao động là quá trình con người chủ động tác động vào thiên nhiên để làm thay đổi mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên; mối quan hệ giữa người với người cũng được sản sinh ra từ trong lao động. Vậy nên, có thể khẳng định, mọi hoạt động trong nền kinh tế đều mang đậm yếu tố văn hóa, xuất phát từ con người và quay lại phục vụ con người.

Thứ ba, nhận thức về văn hóa ngày càng trở nên sâu sắc, đa chiều trong thời kỳ toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ đem lại cơ hội phát triển cho các nền kinh tế, lợi ích tốt đẹp cho tất cả các quốc gia, mà còn làm nảy sinh những vấn đề văn hóa như nguy cơ làm mai một, xói mòn văn hóa truyền thống của quốc gia, dân tộc. Thực tế cho thấy nếu bản sắc văn hóa của quốc gia, dân tộc bị mai một, xói mòn thì quy mô của nền kinh tế sẽ bị thu hẹp lại, và một khi văn hóa dân tộc suy tàn, dân tộc sẽ chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Vì vậy, vấn đề ý thức văn hóa ngày càng trở nên quan trọng và được đặt ra cấp thiết ở bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử đương đại.

Thứ tư, yếu tố văn hóa ngày càng được phát huy mạnh mẽ trong hoạt động kinh tế. Khi con người có nhận thức rõ ràng về văn hóa và đề cao văn hóa, thì các yếu tố văn hóa sẽ được chú ý nhiều hơn trong hoạt động kinh tế. Yếu tố văn hóa trong hoạt động kinh tế bao gồm nhiều cấp độ khác nhau. Văn hóa doanh nghiệp cũng chính là một trong những biểu hiện của nền văn hóa. Văn hóa doanh nghiệp, về cơ bản, xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp và bản thân nền kinh tế. Chỉ bằng cách kết hợp truyền thống văn hóa dân tộc với môi trường, điều kiện xã hội hiện đại thì văn hóa mới có thể phát triển cùng với kinh tế. Văn hóa có tính độc lập nhất định và tính ổn định tương đối. Dù có tính ổn định tương đối, nhưng văn hóa vẫn chịu sự tác động của nhiều yếu tố, nhất là trong quá trình giao lưu, tiếp biến. Nhờ đó, văn hóa luôn chứa đựng những giá trị tiến bộ, yếu tố tiên tiến. Một nền văn hóa tiên tiến, tiến bộ là động lực thúc đẩy một nền kinh tế phát triển; một nền văn hóa lạc hậu chỉ có thể đồng hành với một nền kinh tế nghèo nàn.

Hội nhập kinh tế và văn hóa là xu thế chung của sự phát triển xã hội đương đại. Chủ thể của nền kinh tế thị trường hiện đại là con người với mong muốn có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, nhưng vẫn cần phải có những ràng buộc về đạo đức, hay nói một cách đầy đủ thì đó chính là văn hóa đạo đức. Phát triển kinh tế không thể tách rời với việc nâng cao chất lượng văn hóa nói chung cũng như văn hóa đạo đức của con người, và một nền kinh tế sẽ phát triển cùng một nền văn hóa phù hợp với nó.

Thứ năm, thế giới ngày nay đang dần bước vào kỷ nguyên kinh tế văn hóa. Trong thời đại ngày nay, văn hóa và kinh tế càng không thể tách rời nhau. Văn hóa hóa kinh tế và kinh tế hóa văn hóa đã trở thành xu thế quan trọng của toàn cầu; vai trò của văn hóa trong việc thúc đẩy, hướng dẫn và hỗ trợ phát triển kinh tế ngày càng rõ nét, bao gồm từ việc xây dựng chiến lược, chính sách phát triển kinh tế đến sản xuất, quản lý doanh nghiệp và tạo ra các sản phẩm có thương hiệu, đây không chỉ là những hoạt động kinh tế, mà còn là những hoạt động văn hóa phức tạp, đòi hỏi phải có tư duy và trí tuệ văn hóa. Ngay cả mô hình phát triển kinh tế và đặc điểm cơ cấu công nghiệp của một quốc gia hoặc khu vực cũng có một nền tảng văn hóa và yếu tố con người đáng kể. 

Ở nước ta hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là vấn đề xây dựng kinh tế, mà còn liên quan tới khoa học xã hội và văn hóa. Nếu không có sự phát triển đồng bộ của văn hóa thì không thể xây dựng được đạo đức kinh tế và các chuẩn mực kinh tế, không thể phát triển kinh tế bền vững. Theo nghĩa này, nền kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế văn hóa, là nền kinh tế dựa trên tri thức và được hỗ trợ bởi tri thức văn hóa. Phát triển kinh tế văn hóa, nâng cao hàm lượng văn hóa của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp, nâng cao trình độ văn hóa của cơ cấu kinh tế trở thành phương thức quan trọng để nâng cao chất lượng tổng thể của nền kinh tế quốc dân, đồng thời là động lực bên trong để nâng cao năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Phải hết sức coi trọng nội hàm văn hóa của tăng trưởng kinh tế, phát huy hơn nữa vai trò quan trọng của nhân tố văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh phát triển công nghiệp văn hóa, tạo động lực văn hóa mạnh mẽ để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Phát huy tiềm lực và sức mạnh văn hóa là yêu cầu cấp thiết, là tất yếu để nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế

Nhận thức sâu sắc ý nghĩa chiến lược của việc xây dựng văn hóa và thúc đẩy sự phát triển, phồn vinh của nền văn hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc (tháng 11-2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, cấp ủy và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hóa, trên cơ sở đó, xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa; khắc phục tư tưởng “duy kinh tế”, chỉ tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế mà ít quan tâm đến phát triển văn hóa; phải quán triệt nghiêm túc quan điểm “văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Có thể nói, trong thế giới ngày nay, khi văn hóa, kinh tế, chính trị hòa quyện với nhau, thì vị trí, vai trò của từng thành tố trong quá trình xây dựng, tích lũy và phát triển sức mạnh toàn diện của dân tộc ngày càng trở nên nổi bật. Đây là sự phản ánh nhạy bén và nắm bắt chính xác những xu hướng và đặc điểm mới sự phát triển của các quốc gia trên thế giới trong thời đại thông tin, đồng thời là sự khái quát mới trong nhận thức của Đảng ta về văn hóa.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, sự phát triển tổng thể sức mạnh quốc gia và khả năng phục hồi kinh tế của một quốc gia ngày càng phụ thuộc vào sức mạnh mềm văn hóa của quốc gia đó. Để thúc đẩy sự phát triển đồng bộ nền kinh tế, không chỉ cần tiến hành cải cách hệ thống kinh tế tương ứng, mà còn phải nâng cao năng lực cạnh tranh về văn hóa nói riêng, sức mạnh văn hóa nói chung. Đây là sự lựa chọn tất yếu để thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế, xã hội và con người. Trong đó, vai trò của văn hóa đối với việc thúc đẩy, hướng dẫn và hỗ trợ phát triển kinh tế ngày càng rõ nét, như nhà xã hội học, kinh tế học Max Weber từng khẳng định: Chúng ta nên lý giải vai trò của văn hóa từ những yếu tố quyết định đến sự thịnh vượng của nền kinh tế; sở dĩ các nước phương Đông và phương Tây quyết định lựa chọn con đường phát triển khác nhau là do các yếu tố đặc điểm văn hóa truyền thống không giống nhau; trong quá trình phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung đó, văn hóa có vai trò giúp chúng ta khai mở những cách nhìn mới(2).

Công nghiệp văn hóa “đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn hóa của các nước trên thế giới”(3). Từ đó, cần có những giải pháp tạo điều kiện, môi trường thuận lợi về mặt cơ chế, chính sách và kinh doanh để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, thể hiện chủ trương gắn kết phát triển văn hóa và phát triển kinh tế. Đặc biệt, ngày 8/9/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, tạo khung chính sách tương đối thuận lợi để các ngành công nghiệp văn hóa có khả năng khai thác và chuyển hóa hiệu quả các thành tố sức mạnh mềm văn hóa nằm trong các trụ cột tài nguyên văn hóa thành sức thu hút, hấp dẫn văn hóa thông qua các sản phẩm và dịch vụ văn hóa.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh vai trò động lực của văn hóa trong phát triển kinh tế: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Xây dựng, phát huy yếu tố văn hóa để thực sự là đột phá phát triển kinh tế  - xã hội, hội nhập quốc tế”(4) và “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”(5).

Có thể nói, sức mạnh văn hóa là kết quả của sự gắn kết, hướng dẫn, truyền cảm hứng và tạo động lực bởi các yếu tố văn hóa khác nhau trong việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, xã hội và con người nói chung. Trong thời đại ngày nay, sức mạnh văn hóa cũng như năng lực cạnh tranh về văn hóa của các quốc gia chủ yếu thể hiện ở ba khía cạnh sau:

Một là, khả năng đổi mới văn hóa. So với đổi mới trên các lĩnh vực khác, đổi mới văn hóa có ý nghĩa đặc biệt hơn, trong đó sáng tạo là “lẽ sống” của văn hóa; sản phẩm văn hóa có cạnh tranh được hay không phụ thuộc chủ yếu vào năng lực đổi mới văn hóa.

Hai là, gia tăng hàm lượng công nghệ của công nghiệp văn hóa. Sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa là kết hợp giữa công nghệ, thị trường và văn hóa. Sự cạnh tranh trong công nghiệp văn hóa ngày càng biểu hiện rõ ở cạnh tranh về sức mạnh công nghệ. Chỉ bằng cách phát triển mạnh mẽ công nghệ cao và các ngành liên quan, thúc đẩy sự kết hợp của các ngành công nghiệp văn hóa và công nghệ thông tin, công nghệ cao mới có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp văn hóa nói riêng và sức mạnh văn hóa dân tộc nói chung.

Ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc thúc đẩy đổi mới văn hóa, ứng dụng công nghệ cao để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa không thể tách rời nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, điểm cơ bản của nâng cao năng lực cạnh tranh về văn hóa và tăng sức mạnh văn hóa dân tộc nằm ở việc xây dựng một nguồn nhân lực thực sự có chất lượng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa.

Với sự phát triển của khoa học, công nghệ và kinh tế, văn hóa đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; hội nhập kinh tế và văn hóa trở thành xu thế trong sự phát triển xã hội ngày nay. Nhờ đó, lợi ích kinh tế, xã hội do văn hóa tạo ra ngày càng cao. Trong những năm gần đây, ở nước ta, không chỉ phát triển kinh tế mới cần đến sự hỗ trợ của văn hóa, mà bản thân công nghiệp văn hóa đã bắt đầu trở thành một bộ phận của nền kinh tế, với những đóng góp ngày càng rõ nét. Sự phụ thuộc và thúc đẩy lẫn nhau của văn hóa và kinh tế làm cho sự phát triển của văn hóa và kinh tế thể hiện một xu hướng hội nhập rõ ràng. Sự phát triển của một số quốc gia, nhất là các nước lớn, như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản... đã cho thấy năng lực cạnh tranh về văn hóa là một trong những thành tố quan trọng trong năng lực cạnh tranh toàn diện của quốc gia. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của một quốc gia không chỉ là nâng cao năng lực tăng trưởng của kinh tế, mà còn phải nâng cao năng lực phát triển tổng thể của kinh tế, xã hội, văn hóa, đặc biệt là nâng cao năng lực cạnh tranh về văn hóa của quốc gia đó; và Việt Nam không phải là ngoại lệ.

Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trên cơ sở gắn kết chặt chẽ với kinh tế tri thức, kinh tế số

Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức, thông tin. Cơ sở của nền kinh tế tri thức là tri thức, văn hóa. Nói cách khác, đó là nền kinh tế kết hợp giữa công nghệ cao và văn hóa cao. Trong thời đại ngày nay, các sản phẩm và dịch vụ cạnh tranh không chỉ có hàm lượng kỹ thuật cao, mà còn phải có hàm lượng văn hóa cao. Nâng cao hàm lượng văn hóa của hàng hóa và dịch vụ cũng quan trọng như nâng cao hàm lượng kỹ thuật, để tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Để nâng cao hàm lượng văn hóa của hàng hóa và dịch vụ, phải chú ý đến việc quảng bá văn hóa dân tộc và tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mang phong cách và đặc trưng riêng của đất nước. Trong sự phát triển của toàn cầu hóa kinh tế, khi con người tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ từ các quốc gia khác, họ cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa như hệ tư tưởng và các giá trị được cô đọng trong các hàng hóa và dịch vụ.

Kinh tế số là phát triển kinh tế dựa trên nền tảng số, là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất mà trực tiếp là sự phát triển mạnh mẽ và song hành giữa các công nghệ số hóa (điển hình là internet kết nối vạn vật) và kinh tế số, đã tạo nên sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và tác động đến mọi mặt của đời sống con người. Thị trường số là lĩnh vực phát triển tiên phong của kinh tế số. Ngày nay, kinh tế số là một cấu phần đóng góp một tỷ trọng đáng kể với xu thế ngày càng tăng nhanh trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế số đã trở thành xu thế tất yếu trên con đường hiện đại hóa của mọi quốc gia, phản ánh trình độ của nền kinh tế ở mức độ phát triển cao. Do đó, phát triển văn hóa hiện nay cũng không thể tách khỏi nền tảng của kinh tế số.

Công nghiệp văn hóa là ngành kinh tế tạo ra của cải xã hội mới trong xã hội hiện đại. Trong cơ cấu kinh tế thế giới, tỷ trọng công nghiệp văn hóa ngày càng tăng, công nghiệp văn hóa đã trở thành ngành đi đầu trong việc mở rộng ngoại thương ở một số nước phát triển và là ngành quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là một phương thức quan trọng để mở rộng việc làm. Tích cực áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ mới và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa mới đã trở thành trọng tâm để tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, mà nhiều quốc gia đã triển khai thành công. Sự thâm nhập và chuyển hóa các thành tựu công nghệ cao vào công nghiệp văn hóa ngày càng rõ nét. Chẳng hạn, việc chuyển đổi sang truyền thông kỹ thuật số là một bước cần thiết để phát triển tài nguyên văn hóa truyền thống thành tài nguyên kinh tế, về bản chất là chuẩn bị điều kiện cho hội nhập công nghiệp quy mô rộng lớn, có ý nghĩa kinh tế quan trọng.

Ở nước ta, việc gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số trong điều kiện hiện nay sẽ khắc phục được những hạn chế của công nghiệp hóa truyền thống và tạo ra khả năng rút ngắn đáng kể thời gian để xây dựng, phát triển một nền kinh tế hiện đại, đặc biệt là trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc (tháng 11/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh”(6).

Trước đó, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, gia tăng sức sản xuất và cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Đến nay, tại Việt Nam, các ngành công nghiệp văn hóa được nhiều người biết đến là truyền hình - phát thanh, điện ảnh, quảng cáo, du lịch văn hóa, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, thủ công mỹ nghệ, thiết kế,...

Với những thay đổi thể chế mang tính tích cực, Việt Nam đã từng bước gắn các thành tố sức mạnh mềm văn hóa với tiến trình phát triển các ngành công nghiệp văn hóa để tái cơ cấu nền kinh tế sang hướng kinh tế tri thức, từ đó chuyển hóa nguồn tài nguyên mềm văn hóa thành năng lực cạnh tranh, sức thu hút, hấp dẫn, góp phần nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Các ngành công nghiệp văn hóa đã thúc đẩy thị trường công nghiệp văn hóa Việt Nam có những bước tiến mới, mang lại những đóng góp nhất định vào tăng trưởng GDP của cả nước. Năm 2015, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 2,68% GDP, đến năm 2019 đã tăng lên 3,42% GDP. Sự thay đổi này cho thấy, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đang phát huy khá hiệu quả các thành tố sức mạnh mềm văn hóa thông qua hoạt động của các ngành công nghiệp văn hóa, dần rút ngắn khoảng cách với các nền công nghiệp văn hóa trên thế giới, góp phần gia tăng sức cạnh tranh và hội nhập quốc tế(7).

Có thể nói, trong thế giới ngày nay, ảnh hưởng của các nhóm công nghiệp văn hóa xuyên quốc gia ngày càng gia tăng và sức thâm nhập của chúng vào nền văn hóa của từng quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Dòng chảy toàn cầu của vốn văn hóa xuyên quốc gia cũng như vai trò to lớn của phân công lao động trong phân bổ nguồn lực đã trở thành những yếu tố ảnh hưởng đến những thay đổi trong cấu trúc các ngành công nghiệp văn hóa thế giới và xu hướng của thị trường văn hóa thế giới. Trước thực trạng đó, sự phát triển và lớn mạnh của nền công nghiệp văn hóa của quốc gia - dân tộc có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của văn hóa dân tộc và an ninh văn hóa của đất nước. 

Chương trình biểu diễn nghệ thuật ngoài trời "Ký ức Hội An" tại phố cổ Hội An (tỉnh Quảng Nam).
Chương trình biểu diễn nghệ thuật ngoài trời "Ký ức Hội An" tại phố cổ Hội An (tỉnh Quảng Nam).

Để văn hóa thúc đẩy sự phát triển kinh tế

Văn hóa vừa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa có thể chuyển hóa thành lực lượng vật chất trong quá trình con người tìm hiểu và cải tạo thế giới, do đó, có tác động quan trọng đến sự phát triển xã hội và sự trưởng thành của cá nhân. Trong thế giới ngày nay, văn hóa, kinh tế, chính trị luôn đan xen với nhau, và văn hóa là một lĩnh vực quan trọng, có vị trí đặc biệt trong cuộc cạnh tranh về sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia, các ngành công nghiệp văn hóa là một lĩnh vực đặc biệt, vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa có giá trị xã hội, nhân văn. Vì vậy, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi trọng sự phát triển của văn hóa dân tộc, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Do đó, mỗi người dân cần nhận thức rõ trọng trách phát huy và phát triển văn hóa dân tộc. Điều này thể hiện ở tình cảm yêu nước nồng nàn, lòng tự tôn dân tộc của nhân dân Việt Nam, đồng thời có trách nhiệm thúc đẩy phát triển văn hóa nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng. Sức mạnh văn hóa là một phần quan trọng sức mạnh tổng thể của quốc gia. Khi văn hóa mai một thì sức mạnh kinh tế cũng bị suy yếu, kìm hãm sự phát triển kinh tế nói riêng, sự phát triển đất nước nói chung. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(8). Nếu không hướng đến mục tiêu văn hóa thì mọi nỗ lực phát triển kinh tế sẽ trở nên vô nghĩa. Do vậy, cần phải phát triển mạnh mẽ văn hóa.

Có thể nói, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là một “mặt trận” để chúng ta tham gia vào cuộc cạnh tranh toàn cầu. Điều này đặt ra yêu cầu đối với Nhà nước là cần phải có sự đầu tư mạnh mẽ về tài chính cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa; Chính phủ và chính quyền các địa phương cần thành lập các quỹ hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa; thực hiện các chính sách về giảm và miễn thuế đối với các ngành công nghiệp văn hóa. Hướng dẫn các tổ chức tài chính, ngân hàng đổi mới hệ thống quản lý tín dụng thích ứng với sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa, đồng thời thúc đẩy sự thích ứng của các ngành công nghiệp văn hóa với các sản phẩm sáng tạo; xây dựng cơ chế bảo hiểm để hỗ trợ các ngành công nghiệp văn hóa phát triển...

Để hỗ trợ các ngành công nghiệp văn hóa vươn ra toàn cầu, các ngành, các cấp cần có sự phối hợp chặt chẽ trong xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách hoàn thiện hệ thống tài chính, thuế và mở rộng mạng lưới ngoại thương văn hóa, tích cực mở rộng đầu tư ra nước ngoài... Trong thời gian tới, một mặt, cần tiếp tục phát triển và bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi công cộng, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản về văn hóa của nhân dân; mặt khác, đẩy nhanh phát triển công nghiệp văn hóa để sớm trở thành ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phục vụ nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng của nhân dân; đồng thời, cần nâng cao sức mạnh mềm văn hóa của đất nước.

Trên thực tế, bất kể từ góc độ văn hóa (về nội dung, công nghệ truyền thông, chủ trương văn hóa,...) hay từ góc độ phúc lợi công cộng văn hóa, công nghiệp văn hóa, phải đặt lợi ích xã hội lên hàng đầu, tránh tâm lý đầu tư phát triển theo số đông và chỉ coi trọng tăng trưởng kinh tế; xây dựng hệ thống chính sách và kết cấu hạ tầng để thúc đẩy phát triển văn hóa nói chung và các ngành công nghiệp văn hóa nói riêng theo hướng bền vững./.

----------------------

(1) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 164.

(2) Xem: “Thể chế với sự thịnh vượng của quốc gia”, Tạp chí Tia sáng điện tử, ngày 13-12-2011, https://tiasang.com.vn/-khoi-nghiep/the-che-voi-su-thinh-vuong-cua-quoc-gia-4717.

(3) Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, ban hành kèm theo Quyết định số 581/QĐ-TTg, ngày 6/5/2009, của Thủ tướng Chính phủ.

(4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 134, 47.

(6) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 172.

(7) Xem: Nguyễn Thị Thu Phương: “Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam hiện nay”, in trong Kỷ yếu Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Hà Nội, tháng 11-2021, tr. 205 – 208.

(8) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 27.

Theo PGS. TS Vũ Trọng Lâm/tapchicongsan.org.vn