Ngân hàng Thế giới:

Việt Nam có thể cân nhắc cho phép tỷ giá linh hoạt hơn nữa

Theo Hoàng Linh/nhandan.vn

Nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều lực cản mạnh. Sức cầu bên ngoài chững lại trong khi điều kiện huy động tài chính toàn cầu bị thắt chặt gây ảnh hưởng đến tỷ giá. Lạm phát giá tăng và điều kiện huy động tài chính trong nước cũng bị thắt chặt có thể ảnh hưởng đến cầu trong nước trong vài tháng tới.

Những thông tin trên được đưa ra tại báo cáo Cập nhật Tình hình Kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 11/2022 do Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố.

Theo Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng sản xuất công nghiệp chững lại do sức cầu bên ngoài yếu. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 6,3% trong tháng 10 (so cùng kỳ năm trước), so với 10,3% trong tháng trước. Tăng trưởng giảm tốc có thể do hiệu ứng xuất phát điểm thấp đang yếu dần.

Tuy nhiên, sức cầu yếu đi bên ngoài cũng có thể là nguyên nhân quan trọng khi tăng trưởng tại EU, Mỹ và Trung Quốc đang chậm lại. Chỉ số PMI trong lĩnh vực chế tạo chế biến giảm từ 52,5% trong tháng 9 xuống 50,6% trong tháng 10/2022, vừa đủ trên mốc 50 nhưng là mức thấp nhất kể từ tháng 10/2021, càng chứng tỏ tăng trưởng trong lĩnh vực chế tạo chế biến đang giảm tốc.

Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Doanh số bán lẻ tiếp tục tăng, nhưng với tốc độ chậm hơn. Doanh số bán lẻ tăng 17,1% trong tháng 10 (so cùng kỳ năm trước) so với 32,3% trong tháng trước đó (so cùng kỳ năm trước). Tăng trưởng giảm mạnh một mặt do hiệu ứng xuất phát điểm thấp đang mờ dần, giống như đối với chỉ số sản xuất công nghiệp, mặt khác, điều này phản ánh nhu cầu trong nước đang yếu đi do quá trình hồi phục tiêu dùng trong ba quý đầu năm dường như đang yếu dần trong điều kiện lạm phát.

Doanh số bán lẻ hàng hóa tăng 9,6% (so cùng kỳ), thấp hơn so với tốc độ tăng trước đại dịch ở mức khoảng 12% (so cùng kỳ). Tốc độ tăng doanh số dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành, từng vượt trên cả mức trước đại dịch trong tháng 08/2022, hiện chỉ đạt 12% (so cùng kỳ), nghĩa là thấp hơn so với tháng 10/2019. Số lượt khách du lịch quốc tế sau khi phục hồi mạnh mẽ từ tháng 3 đến tháng 8/2022 bắt đầu đi ngang trong tháng 9 và tháng 10. Quốc gia đón được 484.400 lượt khách quốc tế trong tháng 10, tăng 12,2% so với tháng 9, nhưng chỉ bằng 30% so với mức vào tháng 10/2019.

Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Cán cân thương mại hàng hóa ghi nhận thặng dư trong tháng 10, nhưng tăng trưởng xuất khẩu chững lại. Mặc dù cán cân thương mại ghi nhận thặng dư ở mức 2,3 tỷ USD trong tháng 10 - tháng thứ năm liên tiếp - nhưng tăng trưởng xuất khẩu lại giảm từ 10,3% trong tháng 9 (so cùng kỳ) xuống còn 4,8% trong tháng 10 (so cùng kỳ), là tốc độ tăng thấp nhất kể từ tháng 10/2021.

Tổng vốn đăng ký đầu tư nhảy vọt lên 3,7 tỷ USD trong tháng 10, tăng 122% (so cùng kỳ), cao thứ nhì trong năm 2022. Mức tăng này có được là nhờ các khoản đầu tư lớn vào cơ sở sản xuất kinh doanh mới (2,0 tỷ USD) trong lĩnh vực điện, khí và cấp nước. Mặt khác, đầu tư trong lĩnh vực chế tạo chế biến vẫn thấp hơn 13,1% so với năm trước. Trong 10 tháng đầu năm 2022, vốn đăng ký FDI đạt 22,5 tỷ USD, giảm 5,4% so với năm trước. Số giải ngân vốn FDI vẫn đứng vững, tăng 8,1% trong tháng 10 (so cùng kỳ) và tăng 15,2% trong 10 tháng đầu năm (so cùng kỳ).

Số đăng ký vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng bật lại, số giải ngân FDI duy trì tăng trưởng vững chắc là những điểm sáng của kinh tế Việt Nam trong tháng 10. Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Số đăng ký vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng bật lại, số giải ngân FDI duy trì tăng trưởng vững chắc là những điểm sáng của kinh tế Việt Nam trong tháng 10. Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng tốc từ 3,9% trong tháng 9 lên 4,3% trong tháng 10, lần đầu tiên vượt trên chỉ tiêu 4% của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kể từ tháng 4/2020. Yếu tố đóng góp của lĩnh vực vận tải tiếp tục giảm mạnh do giá xăng dầu trong tháng 10 giảm lần lượt 6,0% (so cùng kỳ) và 0,6% (so tháng trước), thấp hơn 2,1% so với năm trước.

Bù lại, lạm phát gia tăng là do giá lương thực thực phẩm tăng mạnh từ 2,8% trong tháng 9 (so cùng kỳ) lên 5,0% trong tháng 10/2022 (so cùng kỳ), mức cao nhất kể từ tháng tháng 12/2020. Nhóm hàng này chiếm 21,3% giỏ tính CPI. Lạm phát cơ bản, nghĩa là không bao gồm giá lương thực, thực phẩm, năng lượng và các mặt hàng được Nhà nước quản lý giá (y tế và giáo dục), tiếp tục tăng từ 3,8% trong tháng 9 (so cùng kỳ) lên 4,5% trong tháng 10, đạt kỷ lục mới.

Giá cả đầu vào nhập khẩu chính tiếp tục hạ nhiệt. Giá xăng nhập khẩu bình quân giảm bốn tháng liên tiếp (giảm 9,0% (so tháng trước)) và dự kiến sẽ giúp hạ áp lực lạm phát trên thị trường trong nước. Giá phân bón nhập khẩu cũng giảm 15,0% (so tháng trước), gần bằng mức cách đây một năm. Giá thép cũng giảm ba tháng liên tiếp (giảm 8,5% (so tháng trước) và 20,4% so cùng kỳ năm trước. Mặc dù giá than nhập khẩu tăng 18,7% (so tháng trước) sau khi giảm ba tháng, nhưng giá này chỉ cao hơn 3,3% so với năm trước đó.

Tăng trưởng tín dụng hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao. Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Tăng trưởng tín dụng hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao. Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Tăng trưởng tín dụng hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao. Sau khi đạt kỷ lục tăng 16,9% trong tháng 9 (so cùng kỳ), tăng trưởng tín dụng giảm xuống còn 16,5% trong tháng 10 (so cùng kỳ). Tốc độ tăng giảm xuống là do tác động của việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thắt chặt điều kiện huy động tài chính trong nước bằng cách nâng lãi suất lên tổng cộng 200 điểm cơ bản trong tháng 9 và tháng 10. Lãi suất liên ngân hàng qua đêm đạt kỷ lục mới ở mức bình quân 5,8% trong tháng 10 so với 4,9% trong tháng 9/2022, cao hơn nhiều so với lãi suất 0,65% trong năm trước đó. Lãi suất cũng biến động mạnh hơn, dao động từ mốc đáy 3,1% lên mốc đỉnh 8,4% trong tháng 10.

Trong bối cảnh điều kiện huy động tài chính toàn cầu bị thắt lại và đồng đô-la Mỹ mạnh lên, tỷ giá VND/USD chính thức tiếp tục bị mất giá trong tháng 10/2022. Đến ngày 3/11/2022, đồng tiền của Việt Nam mất 9,1% giá trị so với đồng đô-la Mỹ kể từ đầu năm. Mặc dù vậy, đồng nội tệ vẫn bị mất giá ít hơn so với các đồng tiền khác.

Đồng tiền của Việt Nam giảm giá so với đồng đô-la Mỹ. Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Đồng tiền của Việt Nam giảm giá so với đồng đô-la Mỹ. Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Xét áp lực gia tăng đối với đồng nội tệ, Ngân hàng nhà nước vào ngày 17/10 đã nâng độ linh hoạt của tỷ giá bằng cách nới biên giao dịch VND/USD lần đầu tiên kể từ tháng 8/2015 từ +/- 3 phần trăm lên +/- 5 phần trăm. Ngân hàng trung ương cũng nâng hai lãi suất chính sách chính thêm 100 điểm phần trăm vào ngày 25/10: lãi suất chiết khấu được nâng từ 3,5% lên 4,5% (cao hơn lãi suất trước đại dịch ở mức 4,0%), còn lãi suất tái chiết khấu được nâng từ 5,0% lên 6,0% (bằng với lãi suất trước đại dịch). Ngoài ra, trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn bằng đồng nội tệ (từ một đến dưới sáu tháng) cũng được nâng từ 5,0% lên 6,0%.

Cũng theo Ngân hàng Thế giới, do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ dự kiến tiếp tục nâng lãi suất, cơ quan quản lý tiền tệ của Việt Nam có thể cân nhắc cho phép tỷ giá linh hoạt hơn nữa, bao gồm cho phép tỷ giá tham chiếu tăng nhanh hơn. Biện pháp này có thể được bổ sung bằng cách tiếp tục sử dụng lãi suất tham chiếu, đặc biệt nếu tỷ giá tăng nhanh dẫn đến tăng lạm phát và làm cho kỳ vọng lạm phát gia tăng.

Do áp lực tỷ giá kéo dài, biện pháp bán ngoại tệ trực tiếp nên được áp dụng sáng suốt để bảo tồn dự trữ ngoại hối. Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ lúc này trở nên hết sức quan trọng để bảo đảm giá cả ổn định trong bối cảnh lạm phát cơ bản trong nước tăng tốc.