Xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp bị phá sản

PV.

Tòa án nhân dân tối cao cho biết, về vấn đề xử lý tài sản bảo đảm (TSBD) của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản đối với chủ nợ có bảo đảm được quy định tại Điều 41 và Điều 53 Luật Phá sản 2013.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Tòa án nhân dân tối cao vừa ban hành Công văn 152/TANDTC-PC, ngày 19/7/2017, về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng và xử lý nợ xấu, đánh dấu một trong những bước chuyển biến đầu tiên của hệ thống tư pháp trong nỗ lực hiện thực hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng vừa được quốc hội thông qua.

Tại Công văn, Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn cụ thể về cách thức xử lý tài sản đảm bảo của doanh nghiệp phá sản. Theo đó, trong trường hợp doanh nghiệp vay bị phá sản, tổ chức tín dụng (TCTD) yêu cầu Tòa án xử lý cả TSBĐ của bên thứ ba thì Tòa án từ chối và đề nghị khởi kiện tại một vụ án khác.

Tuy nhiên, khi đã có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, TCTD tiếp tục khởi kiện yêu cầu xử lý TSBĐ của bên thứ ba nhằm thu hồi vốn thì có Toà án chấp thuận thụ lý và giải quyết, có Toà án lại không thụ lý với lý do nghĩa vụ (khoản nợ) không còn tồn tại (do doanh nghiệp không còn tồn tại và theo luật đã được xoá nợ). Điều này đã tước bỏ quyền hợp pháp và gây thiệt hại cho TCTD.

Nhằm giải quyết vướng mắc nêu trên, đồng thời làm rõ hơn về phương thức xử lý của các Thẩm phán khi xử lý các vụ việc liên quan đến TSBĐ của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản đối với chủ nợ có bảo đảm, tại Điểm 9 văn bản số 152/TANDTC-PC TANDTC đã nêu rõ, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân có thẩm quyền thụ lý vụ việc phá sản, các Tòa án nhân dân phải thực hiện các nội dung sau:

Một là, tạm đình chỉ việc giải quyết vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là một bên đương sự. Thủ tục tạm đình chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Hai là, tách và tạm đình chỉ giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự, hành chính liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là một bên đương sự. Thủ tục tách và tạm đình chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng hành chính.

Ba là, tạm đình chỉ việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đối với các chủ nợ có bảo đảm.

Trong trường hợp sau khi mở thủ tục phá sản, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề xuất Thẩm phán về việc xử lý khoản nợ có bảo đảm đã được tạm đình chỉ theo quy định tại khoản 3 Điều 41 của Luật Phá sản năm 2013 thì văn bản số 152/TANDTC-PC hướng dẫn Thẩm phán phải xem xét và xử lý như sau:

Thứ nhất, xử lý đối với tài sản bảo đảm theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ nếu tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh;

Thứ hai, xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng có bảo đảm đã đến hạn nếu không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh. Đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, Tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ có bảo đảm.

Trong trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề nghị Thẩm phán cho xử lý ngay tài sản bảo đảm đó theo quy định tại khoản 3 Điều 53 Luật Phá sản năm 2013, cụ thể:

Đối với khoản nợ có bảo đảm được xác lập trước khi Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được thanh toán bằng tài sản bảo đảm đó. Trường hợp giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.

Đồng thời, việc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại điểm b khoản 1, quy định cho trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng có bảo đảm đã đến hạn. Đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, Tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ có bảo đảm. Việc xử lý khoản nợ có bảo đảm theo quy định tại khoản 3 Điều 35;

Tại khoản 2 Điều 53 quy định trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề nghị Thẩm phán cho xử lý ngay tài sản bảo đảm đó theo quy định tại khoản 3 Điều 35, Luật Phá sản năm 2013 được thực hiện như sau:

Thứ nhất, đối với khoản nợ có bảo đảm được xác lập trước khi Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được thanh toán bằng tài sản bảo đảm đó;

Thứ hai, trường hợp giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.