Chính sách tài chính đặc thù cho phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp
Bản thân các doanh nghiệp khởi nghiệp không thể tự phát triển nếu thiếu một hệ sinh thái thuận lợi, trong đó có các chính sách tài chính đặc thù. Bài viết đánh giá tầm quan trọng của việc áp dụng các chính sách thuế, tài chính đặc thù đối với hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo và đề xuất một số giải pháp tài chính có tính chất đặc thù nhằm xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Vì sao cần chính sách đặc thù cho hệ sinh thái khởi nghiệp?
Được hình thành bởi 3 nhóm chủ thể chính là: các doanh nghiệp khởi nghiệp (DNKN), các đối tượng hỗ trợ khởi nghiệp và các nhà đầu tư cho khởi nghiệp, hệ sinh thái khởi nghiệp được hiểu là các điều kiện, môi trường trong đó các cá nhân, tổ chức, DN và xã hội đến với nhau để thúc đẩy sự thịnh vượng và phồn vinh của nền kinh tế (WEF - 2014).
Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp đều nhằm mục tiêu là thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế mà trung tâm là các DNKN. Mặc dù, cũng có các đặc điểm như các DN nói chung, nhưng DNKN có những đặc điểm riêng, đó là:
Thứ nhất, có tính đột phá, sáng tạo. Tính đột phá, sáng tạo của DNKN đổi mới sáng tạo (ĐMST) thể hiện ở việc tạo ra một sản phẩm khác biệt, chưa từng có trên thị trường/hoặc tạo ra một giá trị tốt hơn so với những sản phẩm có sẵn/hoặc đi vào những ngành nghề, lĩnh vực chưa từng có trước đây.
So với DN truyền thống khác, DNKN ĐMST cần phải có ý tưởng và thời gian nuôi dưỡng ý tưởng, thử nghiệm ý tưởng trên thị trường. Như vậy, các DNKN ĐMST rất cần vốn cũng như các cơ sở vật chất để thực hiện.
Thứ hai, có tính tăng trưởng cao. Mặc dù, cũng trải qua 6 bước hình thành và phát triển như các DN chung (theo nghiên cứu của Marmer, Hermann và Berman, bao gồm: Phát hiện, khám phá; Đánh giá mức độ quan tâm của nhà đầu tư với sản phẩm mẫu; Đánh giá hiệu quả; Tăng trưởng quy mô; Tối đa hóa lợi nhuận và Làm mới thông qua đấu giá cổ phần (IPO) ra công chúng), tuy nhiên DNKN ĐMST có tốc độ tăng trưởng rất nhanh, đặc biệt từ giai đoạn 4 và cần rất nhiều vốn để thực hiện.
Thứ ba, có tính rủi ro cao. Do được thực hiện từ các ý tưởng kinh doanh mới nên các DNKN ĐMST thường có độ rủi ro cao, mức độ thành công thấp. Mức độ rủi ro của DNKN xuất phát từ các nguyên nhân như yếu thế cạnh tranh trên thị trường, thiếu vốn, do trình độ quản trị, nguồn nhân lực... Đây cũng chính là những vấn đề gây e ngại cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào các DNKN ĐMST.
Thứ tư, việc phát triển của các DNKN ĐMST thường gắn liền với yếu tố công nghệ. Đây là đặc tính tiêu biểu của các DNKN ĐMST. Do các sản phẩm có tính đột phá, sáng tạo nên các DNKN ĐMST hầu hết đều phải dựa vào và sử dụng công nghệ mới để tạo ra tính cạnh tranh về sản phẩm dịch vụ so với các DN truyền thống.
Với những đặc điểm trên, các DNKN ĐMST gặp phải hàng loạt các trở ngại từ năng lực quản trị kinh doanh, chấp hành các thủ tục hành chính; các vấn đề liên quan tới tiêu chuẩn, quy chuẩn, quyền sở hữu trí tuệ và trở ngại lớn nhất đó chính là thiếu vốn, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn, bao gồm cả vốn đầu tư và vốn vay.
Trở ngại này một phần xuất phát từ đặc điểm của các DNKN, một phần do các nhà đầu tư thường có ít thông tin về triển vọng thị trường và các rủi ro của sản phẩm liên quan, về năng lực của các sáng lập viên DNKN ĐMST. Vì vậy, các nhà đầu tư thường không muốn đầu tư vào các DNKN ĐMST, hoặc đầu tư ít hơn vào các DNKN ĐMST để hạn chế các rủi ro.
Như vậy, để tạo lập và phát triển, các DNKN ĐMST rất cần có các yếu tố hỗ trợ, quan trọng nhất là vốn, trình độ quản lý, các kỹ năng...
Vì vậy, các chính sách nếu không được thiết kế có tính chất đặc thù sẽ khó có thể phát triển được hệ sinh thái khởi nghiệp nói chung, DNKN ĐMST nói riêng. Và chính sách thuế, tài chính được thiết kế riêng cho nhóm đối tượng này là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Chính sách tài chính cho hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Việc hỗ trợ của Chính phủ cho việc phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp có thể được thực hiện thông qua 2 hình thức: Trực tiếp (cấp vốn hoặc hỗ trợ kỹ năng miễn phí) và gián tiếp (ưu đãi thuế, cho vay với lãi suất ưu đãi).
Trong thời gian gần đây, các chính sách ưu đãi cho phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp được Chính phủ quan tâm đặc biệt, tuy nhiên, các chính sách về thuế và tài chính đối với nhóm đối tượng này vẫn còn một số vấn đề sau:
Về chính sách thuế
- Chưa có một chính sách đặc thù đối với các DNKN nói chung, quy định về chính sách thuế, tài chính đối với DNKN nói riêng. Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được ban hành vào năm 2017 và Nghị định số 39/2018/NĐ-CP được chính phủ ban hành ngày 11/3/2018 quy định chi tiết Luật Hỗ trợ DNNVV đã đề cập đến khái niệm DNNVV khởi nghiệp sáng tạo và các chính sách hỗ trợ cho nhóm đối tượng này bao gồm quy định hỗ trợ về thuế, đầu tư và vấn đề cấp bù lãi suất (Điều 17 và 18 Luật Hỗ trợ DNNVV).
Tuy nhiên, các văn bản pháp luật này chỉ đề cập đến khái niệm DNNVV khởi nghiệp sáng tạo và chưa có các quy định cụ thể về chính sách thuế, tài chính cho DNKN ĐMST.
Các quy định về các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng chưa chính thức. Mặc dù, có Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định chi tiết về việc đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo nhưng cũng chưa có quy định cụ thể về nghĩa vụ của các nhà đầu tư.
- Chính sách thuế chưa có sự phân biệt theo hướng dành ưu đãi cao hơn cho các DNKN. Cụ thể, thuế suất thuế TNDN đối với các DNKN hiện vẫn áp dụng mức thuế suất 20% như các DN khác. Việc ưu đãi thuế suất 10% hay miễn thuế TNDN đối với thu nhập từ các hoạt động thuộc một số ngành nghề, lĩnh vực được ưu đãi cũng giống như các DN mới thành lập từ dự án đầu tư mới.
- Chưa có quy định chính sách thuế phân biệt đối với nhà đầu tư vào DNKN khi chuyển nhượng vốn. Chính sách thuế hiện hành quy định việc đánh thuế đối với từng lần chuyển nhượng vốn, từng lần chuyển nhượng chứng khoán.
Tuy nhiên, do đặc điểm của các DNKN ĐMST, việc đầu tư vào các DN này có độ rủi ro cao, chính sách thuế chưa quy định cho phép nhà đầu tư bù trừ lỗ từ việc đầu tư vào một số DNKN vào lãi của một số dự án đầu tư vào các dự án khởi nghiệp khác.
Điều này ảnh hưởng nhất định đến việc thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các DNKN. Bên cạnh đó, các quy định về thuế TNCN đối với các nhà đầu tư cá nhân cho hoạt động khởi nghiệp cũng chưa nhận được bất kỳ ưu đãi nào mà vẫn tuân thủ theo quy định chung cho các cá nhân có thu nhập.
- Cơ chế chính sách đặc thù cho vườn ươm mới đang trong giai đoạn áp dụng thí điểm, áp dụng đối với Vườn ươm công nghệ công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc tại TP. Cần Thơ, chưa được áp dụng rộng rãi cho các đối tượng là vườn ươm nói chung.
Về chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng áp dụng cho các DNKN ĐMST hiện nay được thể hiện qua một số hình thức: (i) Hỗ trợ tiếp cận tín dụng; (ii) Hỗ trợ bảo lãnh tín dụng; (iii) Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; (iv) Hình thành, vận hành các quỹ phát triển khoa học công nghệ, các quỹ khác hỗ trợ, cho vay, góp vốn, đầu tư… vào startup.
- Việc tiếp cận tín dụng của các DNKN ĐMST còn hạn chế. Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017 đã đưa ra các biện pháp khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay đối với DNNVV dựa trên xếp hạng tín dụng DN và khuyến khích việc xếp hạng DN.
Đồng thời, Quyết định số 1276/QĐ-TTg, ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế đã đề xuất các nhóm hành động (Trong đó có việc nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ của các tổ chức tín dụng đối với DNNVV và nâng cao chất lượng thông tin khách hàng, hỗ trợ các tổ chức tín dụng tiếp cận thông tin đầy đủ để nâng cao chất lượng tín dụng).
Tuy nhiên, do phần lớn các DNKN ĐMST là DN mới thành lập, chủ DN là các nhóm cá nhân/cá nhân thực hiện các ý tưởng khai thác trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới nên việc xếp hạng tín dụng áp dụng trong trường hợp này không đáp ứng được các tiêu chí, do đó, cơ hội tiếp cận đối với những nguồn vốn tín dụng này là rất hạn chế.
- Các tiêu thức để được hưởng chính sách bảo lãnh tín dụng cũng là một trở ngại trong việc vay vốn của các DNKN ĐMST. Luật Hỗ trợ DNNVV đã đưa ra vấn đề về Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV, trong đó quy định rõ: Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do UBND cấp tỉnh thành lập.
Đồng thời, việc bảo lãnh tín dụng cho DNNVV dựa trên tài sản bảo đảm hoặc phương án sản xuất, kinh doanh khả thi hoặc xếp hạng tín nhiệm của DNNVV.
Với quy định nêu trên, nhiều DNKN ĐMST sẽ không đáp ứng được tiêu chuẩn về tài sản đảm bảo và xếp hạng tín nhiệm DN do các DNKN ĐMST hầu hết đều mới kinh doanh và giá trị tài sản đảm bảo thường không có hoặc có thì là những ý tưởng kinh doanh sáng tạo, khó xác định được giá trị, vì vậy, không đủ điều kiện để được bảo lãnh vay vốn.
Bên cạnh đó, dù Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 8/3/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, nhưng quy định về đối tượng được bảo lãnh và điều kiện bảo lãnh trong Nghị định này cũng chỉ đề cập đến DNNVV nói chung, chưa tính đến đặc thù của DNKN ĐMST nên về cơ bản, các DN trên chưa được hưởng lợi từ những quy định này.
Ba là, quy định về đối tượng được hưởng ưu đãi về lãi suất cho vay chưa được thiết kế phù hợp với đặc điểm của DNKN ĐMST. Đã có một loạt các văn bản quy định về lãi suất cho vay đối với các DNNVV, trong quy định cũng đã hướng tới các tiêu chuẩn của DNKN ĐMST nhưng vẫn chỉ là những điều kiện chung cho DNNVV, chưa tính đến những tính chất đặc thù của DNKN ĐMST là thời gian từ lúc thành lập đến lúc vay ngắn, chưa được xếp hạng tín dụng ổn định và các hồ sơ chưa đảm bảo một số tiêu chí về điều kiện được hưởng ưu đãi.
Một số gợi ý chính sách
Từ thực tiễn nêu trên, việc xác định rõ các DNKN ĐMST, có thể thiết kế các chính sách tài chính đặc thù cho bản thân DNKN ĐMST và các nhóm hỗ trợ, các nhà đầu tư cho DNKN ĐMST, cụ thể, có thể xem xét một số vấn đề sau:
Đối với chính sách thuế
Thứ nhất, đối với các DNKN ĐMST. Các DNKN trong thời gian đầu hoạt động có thể chưa có doanh thu, thu nhập. Vì vậy, có thể áp dụng có mức ưu đãi thuế cao hơn so với các DN khác như cho phép miễn thuế trong thời gian 5 năm đầu hoạt động của DN và áp dụng thuế suất thuế TNDN 10% trong thời gian dài hơn so với thời hạn 15 năm hiện đang áp dụng với các DN được ưu đãi khác.
Đồng thời, cho phép chuyển lỗ không giới hạn thời gian thay vì 5 năm như hiện nay để đảm bảo hỗ trợ tối đa cho DNKN.
Thứ hai, đối với các nhà đầu tư khởi nghiệp: Các chính sách cần phải được thiết kế với mục tiêu hỗ trợ tối đa cho các nhà đầu tư cho khởi nghiệp.
Để thực hiện mục tiêu này, cần ban hành quy định chính thức về đầu tư mạo hiểm bên cạnh việc quy định về đầu tư cho các DNNVV khởi nghiệp sáng tạo như Nghị định số 38/2018/NĐ-CP của Chính phủ. Trong đó, cần chỉ rõ nghĩa vụ thuế của các nhà đầu tư này khi thực hiện đầu tư cũng như khi chuyển nhượng vốn.
Nên đưa ra những quy định về giảm thuế TNDN (đối với các nhà đầu tư là DN) hoặc thuế TNCN (đối với các cá nhân đầu tư) trong trường hợp có thu nhập từ đầu tư hoặc chuyển nhượng vốn. Đồng thời, có thể cho phép bù trừ số lỗ của dự án đầu tư cho khởi nghiệp với các dự án khác để giảm bớt rủi ro cho các nhà đầu tư, khuyến khích họ bỏ vốn cho DNKN.
Thứ ba, đối với các đối tượng hỗ trợ DNKN bao gồm các trường đại học, viện nghiên cứu, vườn ươm: Ban hành quy định về chính sách tài chính nói chung, chính sách thuế nói riêng có tính chất đặc thù đối với nhóm đối tượng này. Có thể vận dụng những kết quả đạt được từ việc thí điểm đối với vườn ươm tại Cần Thơ để phát triển cho tất cả các vườn ươm trên toàn quốc. Cụ thể:
- Miễn thuế nhập khẩu các hàng hóa là máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, phương tiện vận tải trong nước chưa sản xuất được; Công nghệ trong nước chưa tạo ra được; Tài liệu, sách, báo, tạp chí khoa học và các nguồn tin điện tử về khoa học và công nghệ của DN nhập khẩu phục vụ trực tiếp vào hoạt động ươm tạo công nghệ tại vườn ươm.
- Áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm, miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với các DN thực hiện dự án đầu tư mới ươm tạo công nghệ cao trong các lĩnh vực tại vườn ươm hoặc TNDN từ thực hiện dự án đầu tư mới ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển (theo quy định của Luật Công nghệ cao) mà được ươm tạo thành công tại Vườn ươm được áp dụng.
- Áp dụng quy định về việc giảm thuế TNCN cho các chuyên gia làm việc tại vườn ươm như đối với các cá nhân làm việc trong các khu kinh tế hiện nay.
Đối với các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp khác, cũng cần có những quy định cụ thể hơn như miễn thuế đối với thu nhập nhận được từ hỗ trợ khởi nghiệp cho các trường đại học, viện nghiên cứu, các đối tượng tư vấn pháp lý, hỗ trợ kinh doanh, các đối tượng xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các khu làm việc chung cho các startup, đối với các hoạt động quảng bá, truyền thông…
Thứ tư, ban hành và cho phép DNKN ĐMST áp dụng những quy định về thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán đơn giản theo quy định của pháp luật về thuế, kế toán. Việc đăng ký thuế được thực hiện qua mạng internet và các DNKN trong 5 năm đầu nếu chưa có doanh thu có thể khai thuế GTGT 6 tháng hoặc 1 lần/năm.
Thứ năm, thay thế hình thức miễn giảm thuế có thời hạn sang hình thức khấu trừ thuế đầu tư cho DNKN ĐMST và các đối tượng hỗ trợ, đầu tư. Khấu trừ thuế đầu tư - tức là cho phép khấu trừ một tỷ lệ % nhất định trên tổng giá trị tài sản mới đầu tư cho khoa học công nghệ trực tiếp vào số thuế TNDN phải nộp trong năm tính thuế.
Hình thức ưu đãi này có tác dụng tương tự như việc Nhà nước hỗ trợ trực tiếp một phần vốn cho DN, tương ứng với khả năng tạo vốn và tạo thu nhập trên cơ sở kinh doanh có lãi và thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Đối với các DNKN ĐMST, sau thời gian đầu được miễn thuế, những năm sau nếu có thu nhập có thể áp dụng hình thức này.
Tương tự, các nhà đầu tư và các nhà hỗ trợ cho DNKN ĐMST nếu có phát sinh các chi phí đầu tư cho DNKN ĐMST cũng có thể áp dụng hình thức này. Tuy nhiên, muốn áp dụng hình thức khấu trừ thuế đầu tư có kết quả tốt nhất, phải quan tâm đến 2 vấn đề đó là xác định tỷ lệ khấu trừ thuế đầu tư và quy định thế nào là giá trị đầu tư cho DNKN ĐMST và như vậy, cần những quy định cụ thể, chặt chẽ hơn.
Đối với chính sách tài chính
Trở ngại lớn nhất trong cả việc tiếp cận tín dụng, bảo lãnh tín dụng hay hưởng ưu đãi về lãi suất vay đặt ra là các DNKN ĐMST chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe đặt ra về vốn, về xếp hạng tín nhiệm DN.
Đặc biệt, các DNKN ĐMST thường không thể đáp ứng hoặc chỉ có thể đáp ứng được rất ít các điều kiện cho vay tín dụng không thế chấp đối với DNNVV. Vì vậy, cần có cơ chế đặc thù để các DNKN ĐMST có thể tiếp cận được các ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư góp vốn đầu tư vào các DNKN ĐMST:
Một là, xây dựng quỹ đầu tư cho DNKN ĐMST theo mô hình hợp tác công tư thuộc Chính phủ. Hoạt động của quỹ này thực hiện theo cách thức của các quỹ tín thác nhằm kêu gọi vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong xã hội.
Việc đầu tư cho các DNKN ĐMST có thể được thiết lập dưới dạng đối tác đầu tư thông qua hình thức là các khoản vay hoặc vốn chủ sở hữu nhằm cung cấp vốn đầu tư trong giai đoạn khởi nghiệp.
Hai là, xây dựng một chương trình tài chính đặc biệt dành cho DNKN ĐMST. Chính phủ có thể thông qua một tập đoàn tài chính quốc gia cho các DNKN ĐMST vay không thế chấp hoặc bảo lãnh trong một thời gian nhất định, thường là thời gian đầu của khởi nghiệp.
Tuy nhiên, do tỷ lệ rủi ro của DNKN ĐMST cao nên nguồn vốn của chương trình này được coi như một khoản chi tiêu của Chính phủ.
Ba là, thiết kế riêng các gói sản phẩm tín dụng cho các DNKN ĐMST tại các ngân hàng thương mại, trong đó giảm bớt các điều kiện đánh giá về năng lực tài chính hay xếp hạng tín nhiệm DN mà có thể đánh giá dựa trên tiêu thức xác định DNKN ĐMST hoặc các tiêu chí đánh giá tính khả thi của phương án kinh doanh nhằm kiểm soát rủi ro mà không cần tài sản đảm bảo.
Tài liệu tham khảo:
1. Phạm Tiến Đạt (2018), Nguyên tắc xây dựng chính sách tài chính đặc thù cho hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - nhìn từ kinh nghiệm quốc tế, NXB Tài chính, Hà Nội;
2. Vũ Văn Ninh, Phạm Thị Thanh Hòa (2018), Chính sách tín dụng dành cho DNKN, NXB Tài chính, Hà Nội;
3. Diêm Thị Thanh Hải, Hoàng Phương Anh (2018), Một số đề xuất đối với chính sách tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DN khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hoạt động, NXB Tài chính, Hà Nội;
4. VCCI (2017), Báo cáo Nghiên cứu "Cơ chế hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo - Kinh nghiệm quốc tế - đề xuất giải pháp cho Việt Nam";
5. Dan Senor and Saul Singer, Start-up Nation, The Story of Israel’s Economic Miracle (Quốc gia khởi nghiệp: Câu chuyện về nền kinh tế thần kỳ của Israel), NXB Thế giới, 2013.