Chính sách tài khóa: Trụ cột quan trọng trong phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2024 diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế quốc tế tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp; trong nước thiên tai diễn ra trên diện rộng, cường độ lớn đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp và đời sống của người dân. Tuy nhiên, với việc triển khai đồng bộ các giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng của nền kinh tế đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Các giải pháp về tài khóa thực hiện trong năm qua đã trở thành động lực quan trọng hỗ trợ, thúc đẩy nền kinh tế vượt qua các khó khăn, thách thức.
Tổng quan về chính sách tài khóa của Việt Nam năm 2024
Năm 2024, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, nền kinh tế nước ta tiếp tục phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức xuất phát từ các diễn biến bất lợi, phức tạp của tình hình quốc tế, trong đó có những vấn đề mới ngoài dự báo. Các yếu tố như xung đột quân sự, bất ổn chính trị gia tăng, cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia ngày càng gia tăng cùng với các thách thức an ninh phi truyền thống đã tác động trực tiếp, đa chiều đến tăng trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia. Kinh tế nhiều quốc gia, đối tác thương mại, đầu tư lớn với nước ta phục hồi chậm, tăng trưởng thấp. Trong nước, các hoạt động sản xuất trong năm 2024 chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực, nặng nề của thiên tai, dịch bệnh và các hiện tượng thời tiết cực đoan, đặc biệt là ảnh hưởng của cơn bão số 3 và lũ lụt ở các tỉnh phía Bắc.
Tuy nhiên, với việc thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau, so với năm 2023, trong năm 2024, nền kinh tế đã phục hồi rõ nét, tháng sau tốt hơn tháng trước, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước và tốt hơn cùng kỳ. Cùng với đó, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm.
Tính chung cả năm 2024, tăng trưởng GDP của Việt Nam ước đạt khoảng 7,09%, cao hơn so với mục tiêu đề ra và mức tăng trưởng của năm 2023. Việt Nam đã trở thành một điểm sáng về tăng trưởng kinh tế, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm ở mức 3,63%, thấp hơn so với ngưỡng được Quốc hội quy định. Cùng với đó, môi trường kinh doanh trong nước tiếp tục cải thiện, xếp hạng môi trường kinh doanh tăng 12 bậc.
Có được sự thành công trên là nhờ có sự phối hợp đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau, trong đó có vai trò rất quan trọng của chính sách tài khóa. Các công cụ của chính sách tài khóa tiếp tục được sử dụng một cách chủ động, chặt chẽ và linh hoạt trên cả hai giác độ là thu và chi ngân sách, kịp thời hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp (DN) mở rộng sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, kích thích tổng cầu trong nước. Phát huy những kết quả tích cực của các năm trước đây, các giải pháp về tài khóa thực hiện trong năm 2024 tiếp tục được nghiên cứu, tính toán kỹ lượng về liều lượng, thời gian áp dụng cũng như khả năng cân đối của ngân sách nhà nước (NSNN) nên nhanh chóng phát huy hiệu quả trên thực tế, được cộng đồng DN và người dân đánh giá cao. Việc thực hiện các giải pháp này vừa hướng tới việc giải quyết cả các mục tiêu ngắn hạn như hỗ trợ người dân, DN khôi phục sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh tình hình kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế tiếp tục có nhiều biến động, vừa hướng đến các mục tiêu lâu dài như tập trung nguồn lực vốn đầu tư công để nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế để mở rộng dự địa phát triển của đất nước.
Thể chế về lĩnh vực tài chính – NSNN tiếp tục được đổi mới một cách đồng bộ và toàn diện. Bộ Tài chính đã trình Chính phủ để trình Quốc hội thông qua Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) số 48/2024/QH15 và Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi, bổ sung 9 luật thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, trong đó có Luật NSNN, Luật Quản lý thuế và Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Cùng với đó, trong năm 2024, đã xây dựng và trình Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Thuế thu nhập DN (sửa đổi) (TNDN) và dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) (TTĐB). Qua đó, góp phần thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về hoàn thiện chính sách thuế nhằm mục tiêu cơ cấu lại nguồn thu NSNN tại Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị, Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2021 - 2030 cũng như Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2021-2025, đồng thời, tập trung khắc phục những vướng mắc của các luật thuế hiện hành, kịp thời tháo gỡ khó khăn, giảm chi phí tuân thủ pháp luật thuế của người dân và DN, tạo môi trường thuận lợi để phát triển các ngành, lĩnh vực mới cần ưu tiên phát triển như công nghiệp công nghệ số, chuyển đổi xanh...
Việc điều hành dự toán thu NSNN năm 2024 được thực hiện chủ động với nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt để đảm bảo thu đúng, thu đủ nguồn lực cho NSNN trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, triển khai quyết liệt việc áp dụng hóa đơn điện tử bắt buộc và đẩy mạnh công tác chống thất thu ngân sách trong một số lĩnh vực có rủi ro như thương mại điện tử, chuyển nhượng bất động sản, giao dịch liên kết. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong các khâu của quy trình quản lý thuế. Nhờ đó, việc thực hiện dự toán thu năm 2024 đạt được nhiều kết quả tích cực. Dự toán thu NSNN là 1.700,99 nghìn tỷ đồng; ước thực hiện đạt khoảng 119,1% dự toán, tăng 15,5% so với thực tế năm 2023. Tỷ lệ huy động vào NSNN năm 2024 ước đạt khoảng 17,8% GDP, riêng thu thuế, phí và lệ phí ước đạt 14,2% GDP, đạt mục tiêu đề ra theo Nghị quyết của Quốc hội và Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030. Qua đó, tiếp tục đảm bảo nguồn lực để cân đối cho các nhiệm vụ chi NSNN theo yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Cơ cấu thu NSNN tiếp tục thay đổi theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng các khoản thu gắn với sản xuất, tiêu dùng trong nước như: thuế GTGT, thuế TNDN, thuế TNCN, TTĐB.
Cùng với đó, các công cụ của chính sách thuế, phí và lệ phí tiếp tục được sử dụng hiệu quả và kịp thời để hỗ trợ cho người dân và DN. Cụ thể, trên cơ sở theo dõi và dự báo sát tình hình, Bộ Tài chính đã chủ động nghiên cứu để tham mưu, đề xuất, trình cấp có thẩm quyền tiếp tục ban hành và ban hành theo thẩm quyền nhiều giải pháp hỗ trợ cho người dân, DN trước bối cảnh tình hình kinh tế xuất hiện các nhân tố mới, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu dùng trong nước. Trong đó, Bộ Tài chính đã báo cáo Chính phủ để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội quyết định tiếp tục thực hiện giảm số khoản thuế như đã thực hiện trong năm 2023, bao gồm: giảm mức thuế bảo vệ môi trường (BVMT) đối với xăng, dầu, mỡ nhờn và giảm (2%) mức thuế suất thuế GTGT đối với một số nhóm hàng hóa và dịch vụ.
Bộ Tài chính cũng đã tham mưu Chính phủ theo thẩm quyền tiếp tục gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế TNDN, thuế TNCN và tiền thuê đất trong năm 2024 theo Nghị định số 64/2024/NĐ-CP ngày 17/6/2024 của Chính phủ; tiếp tục gia hạn thời hạn nộp thuế TTĐB phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 5, tháng 6, tháng 7, tháng 8 và tháng 9 năm 2024 đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước theo Nghị định số 65/2024/NĐ-CP ngày 17/6/2024 của Chính phủ; giảm 50% mức thu lệ phí trước bạ từ tháng 9 đến hết tháng 11/2024 đối với xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước theo Nghị định số 109/2024/NĐ-CP ngày 29/8/2024 của Chính phủ.
Theo thẩm quyền được giao Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 43/2024/TT-BTC ngày 28/6/2024 để thực hiện giảm mức thu đối với 36 khoản phí, lệ phí, áp dụng từ ngày 01/7/2024 đến hết ngày 31/12/2024 và Thông tư số 63/2023/TT-BTC ngày 16/10/2023 quy định giảm mức thu phí, lệ phí từ 10% đến 50% nhằm khuyến khích sử dụng dịch vụ công trực tuyến (có hiệu lực từ 01/12/2023 và áp dụng đến hết năm 2025).
Theo tính toán của Bộ Tài chính, các giải pháp hỗ trợ về thuế, phí và lệ phí thực hiện trong năm 2024 có quy mô hơn 197 nghìn tỷ đồng. Qua đó, trực tiếp và gian tiếp hỗ trợ cho DN, người dân tiết giảm chi phí thuế, có thêm nguồn lực để duy trì, mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, thể hiện sự chia sẻ giữa Nhà nước với cộng đồng DN và người dân ở những thời điểm sản xuất kinh doanh khó khăn. Đồng thời, việc tiếp tục thực hiện chính sách giảm mức thuế BVMT đối với mặt hàng xăng dầu và giảm 2% mức thuế suất GTGT đối với nhiều nhóm hàng hóa và dịch vụ đã góp phần giúp DN tiết giảm chi phí đầu vào, giảm giá thành hàng hóa, dịch vụ sản xuất, cung ứng ra thị trường. Qua đó, vừa kích thích tiêu dùng của người dân và DN, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, vừa góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra.
Đối với chi NSNN, kết quả tích cực trong thực hiện thu NSNN năm 2024 đã tạo điều kiện thuận cho việc điều hành dự toán chi NSNN theo mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Việc điều hành chính sách chi NSNN được thực hiện chủ động, chặt chẽ trong phạm vi dự toán và khả năng thu ngân sách các cấp. Trong đó, đã rà soát, sắp xếp, cắt giảm các nhiệm vụ chi chưa thực sự cần thiết, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên để ưu tiên nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đồng thời, tiếp tục chú trọng đến yêu cầu nâng cao minh bạch, công khai và trách nhiệm giải trình trong việc phân bổ và sử dụng nguồn lực NSNN. Trong đó, tiếp tục ưu tiên tập trung nguồn lực NSNN để đầu tư cho các dự án, công trình hạ tầng trọng điểm, có sức lan tỏa trong nền kinh tế, khắc phục hậu quả thiên tai. Quy mô chi đầu tư phát triển trong năm 2024 ước chiếm khoảng… tổng chi NSNN, cao hơn so với năm 2023.
Cùng với đó, các cân đối lớn về NSNN tiếp tục được đảm bảo, bội chi NSNN và nợ công được kiểm soát chặt chẽ theo mục tiêu đề ra. Bội chi NSNN năm 2024 ước vào khoảng 3,4% GDP, giảm 10 nghìn tỷ đồng so với dự toán. Tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ nợ công so với GDP ước khoảng 36 - 37% GDP (năm 2023 khoảng 36,4% GDP) và tỷ lệ nợ Chính phủ duy trì ở mức 33-34% (năm 2023 khoảng 33,5% GDP), thấp hơn giới hạn được Quốc hội cho phép tương ứng là 60% và 50% GDP.
Công tác phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) để bù đắp cho bội chi NSNN đã bám sát chủ trương tiếp tục cơ cấu lại nợ công theo hướng kéo dài kỳ hạn, giảm áp lực trả nợ ngắn hạn và chi phí vay vốn nêu tại Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 9/11/2016 của Bộ Chính trị. Kỳ hạn phát hành bình quân của danh mục nợ tiếp tục duy trì tương đối dài, góp phần giảm thiểu rủi ro vay đảo nợ, trong đó 100% khối lượng TPCP phát hành có kỳ hạn từ 5 năm trở lên, kỳ hạn phát hành bình quân đạt trên 11 năm, vượt mục tiêu Quốc hội đề ra, góp phần tái cơ cấu danh mục nợ công theo hướng bền vững. Cùng với đó, tỷ trọng nợ nước ngoài trong cơ cấu vay nợ của Chính phủ tiếp tục giảm dần, góp phần giảm thiểu rủi ro tỷ giá và áp lực trong việc cân đối nguồn ngoại tệ để trả nợ trong tương lai.
Một số nhận xét về chính sách tài khóa trong năm 2024 và đề xuất cho năm 2025
Hình 1: Quy mô thu NSNN của Việt Nam (% GDP theo giá hiện hành)
Năm 2024, cùng với việc thực hiện đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô khác, việc thực hiện các chính sách tài khóa nêu trên đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng trong nền kinh tế, góp phần hỗ trợ DN, người dân vượt qua khó khăn, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu dùng. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đã thể hiện xu hướng phục hồi rõ nét, quý sau cao hơn quý trước, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Các giải pháp hỗ trợ về tài khóa thực hiện trong năm 2024 đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao của cộng đồng DN, người dân. Trong đó, đã phát huy được vai trò đòn bẩy của các công cụ của chính sách thuế, phí và lệ phí trong việc kịp thời giúp cho người dân và DN có thêm nguồn lực để khôi phục sản xuất kinh doanh, mở rộng tiêu dùng. Cùng với đó, việc thực hiện các chính sách hỗ trợ qua công cụ chi NSNN đã được sử dụng phù hợp với diễn biến của nền kinh tế cũng như khả năng cân đối nguồn lực. Đồng thời, trong điều hành chính sách tài khóa đã đảm bảo sự phối hợp hiệu quả, đồng bộ giữa chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách có liên quan khác. Nhờ đó, kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo. Đây là tiền đề rất quan trọng cho việc thực hiện các nhiệm vụ về phát triển KT-XH đặt ra cho năm 2025.
Trong thời gian tới, tình hình kinh tế, chính trị quốc tế dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Xung đột địa chính trị sẽ còn kéo dài ở nhiều khu vực, quốc gia. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu và các nền kinh tế lớn dự báo còn khó khăn và đối mặt với rủi ro về ổn định kinh tế vĩ mô. Là quốc gia có độ mở lớn, những nhân tố này dự báo sẽ có những ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2025, kéo theo đó là những thách thức mới trong việc điều hành chính sách tài khóa. Cân đối tài khóa của Việt Nam những năm gần đây mặc dù đã có cải thiện, tỷ lệ nợ công so với GDP giảm nhưng áp lực trả nợ trong trung và dài hạn vẫn còn lớn. Quy mô chi thường xuyên của ngân sách trong tổng chi NSNN hàng năm còn lớn dẫn đến tích luỹ NSNN dành cho đầu tư phát triển còn thấp. Cơ cấu thu NSNN chưa thực sự bền vững do vẫn phụ thuộc đáng kể vào các khoản thu không tái tạo, các khoản thu từ vốn trong khi đó dư địa để mở rộng nguồn thu cho NSNN hiện nay là không nhiều. Trong khi đó, nhu cầu chi NSNN trong giai đoạn tới dự báo là rất lớn, nhất là chi cho đầu tư phát triển các nền tảng để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cho việc thực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững.
Trong bối cảnh này, việc điều hành chính sách tài khóa năm 2025 cũng như một số năm tới cần tập trung vào những nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tài khóa chủ động, linh hoạt, thận trọng; đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác để ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo kiểm soát lạm phát và đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế theo mục tiêu đề ra. Đồng thời, tiếp tục rà soát các rào cản kinh doanh để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, chi phí tuân thủ thấp cho DN, nhà đầu tư trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.
Thứ hai, hướng dẫn, tổ chức triển khai đầy đủ, kịp thời có hiệu quả chính sách về giảm thuế GTGT và thuế BVMT đã được Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua. Đồng thời, chủ động tổng kết, đánh giá việc thực hiện các chính sách hỗ trợ thuế, phí và lệ phí đã được ban hành thời gian qua để kịp thời tham mưu cấp có thẩm quyền các giải pháp phù hợp trong trường hợp tình hình kinh tế trong nước và quốc tế tiếp tục biến động bất lợi trong thời gian tới đây.
Thứ ba, thực hiện hiệu quả, đồng bộ các biện pháp cải cách hệ thống chính sách thuế theo các định hướng đã được xác định trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030. Trước mắt, trong năm 2025 tập trung vào các công việc trọng tâm sau: (1) Triển khai có hiệu quả Luật thuế GTGT (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 8 thông qua (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025); (2) Phối hợp với các cơ quan có liên quan của Quốc hội và các bộ, ngành để nghiên cứu tiếp thu, giải trình ý kiến của các đại biểu Quốc hội đối với 2 dự án luật thuế là Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) và Luật thuế TNDN (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XV cho ý kiến để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội trong quá trình hoàn thiện và thông qua hai dự án Luật này tại kỳ họp tháng 5/2025; (3) Phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng Luật thuế TNCN mới để thay thế cho Luật thuế TNCN hiện hành theo lộ trình đã được Chính phủ phê duyệt, trong đó tập trung vào việc nghiên cứu sửa đổi các quy định về: thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế, các khoản giảm trừ và cơ cấu biểu thuế, mức thuế suất. Đồng thời, xây dựng lộ trình để báo cáo cấp thẩm quyền về việc sửa đổi, bổ sung các Luật thuế khác trong hệ thống chính sách thuế cho giai đoạn sau năm 2025 như: Luật Thuế BVMT, Luật Thuế tài nguyên, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Thuế tài sản…
Việc sửa đổi, bổ sung từng sắc thuế cần được đặt trong tổng thể cải cách của cả hệ thống thuế và gắn với các yêu cầu cơ bản sau: Một là, cụ thể hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương, định hướng của Đảng, Quốc hội về cải cách chính sách thuế, nhất là Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2021- 2030, Phương hướng nhiệm vụ phát triển KT-XH 5 năm 2021- 2025 và Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội; Hai là, bám sát các mục tiêu, định hướng trong việc cải cách đối với từng sắc thuế được xác định trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030, đáp ứng được các yêu cầu đặt ra về cơ cấu lại thu NSNN theo hướng bền vững và yêu cầu động viên nguồn lực cho NSNN; Ba là, kế thừa và phát huy những quy định đã mang lại tác động tích cực của các chính sách thuế hiện hành; đồng thời, sửa đổi, bổ sung những quy định đang là vướng mắc, không còn phù hợp để kịp thời giải quyết những vấn đề bất cập phát sinh trong thực tế, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính; Bốn là, đảm bảo mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển và xu hướng cải cách thuế trên thế giới.
Thứ tư, tiếp tục phát huy có hiệu quả vai trò đòn bẩy của chính sách thuế trong thúc đẩy đầu tư, tiêu dùng trong nước, hỗ trợ hiệu quả việc thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng xanh, phát triển bền vững trên cơ sở rà soát, hợp lý hóa các chính sách ưu đãi thuế, nhất là ưu đãi về thuế TNDN. Đảm bảo các chính sách ưu đãi thuế được thực hiện có chọn lọc, tập trung cho các ngành, lĩnh vực có thể tạo ra ngoại ứng tích cực, tác động lan tỏa đối với nền kinh tế, phù hợp với thị trường và lợi thế quốc gia, khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất xanh, tiêu dùng xanh, công nghiệp bán dẫn, công nghiệp công nghệ số...
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động hợp tác về thuế quốc tế, chủ động tham gia các diễn đàn thuế khu vực và thế giới; hoàn thiện khung khổ về thuế để tham gia hiệu quả các sáng kiến về thuế quốc tế như: Diễn đàn chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận (BEPS), Thuế tối thiểu toàn cầu. Trong thời gian trước mắt, tập trung xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn việc áp dụng thuế TNDN bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu theo Nghị quyết số 107/2023/QH15 ngày 29/11/2023 của Quốc hội để áp dụng từ năm tài chính 2024.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh công tác hoàn thiện thể chế về quản lý NSNN; tăng cường hiệu quả, trách nhiệm giải trình của chi tiêu công. Đẩy mạnh việc thực hiện cơ cấu lại chi NSNN theo hướng bền vững, giảm triệt để chi thường xuyên để ưu tiên phân bổ nguồn lực để tăng chi đầu tư phát triển; phát huy vai trò dẫn dắt, vốn mồi của nguồn lực NSNN trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài NSNN trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng quan trọng, thiết yếu gắn với quá trình cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy phát triển bền vững.
Thứ bảy, thực hiện đồng bộ các biện pháp để đảm bảo an ninh, an toàn nền tài chính công; tiếp tục quản lý chặt chẽ bội chi NSNN, đảm bảo việc vay nợ được đặt trong mối tương quan chung với kế hoạch và khả năng trả nợ trong trung và dài hạn. Đồng thời, tiếp tục kiên định việc điều hành chính sách tài khóa “nghịch chu kỳ”; chủ động giảm bội chi NSNN trong những năm thu NSNN đạt khá, vượt dự toán để đảm bảo có được “không gian tài khóa” đủ rộng để có thể đối phó với các biến động bất lợi của tình hình kinh tế vĩ mô trong tương lai. Cùng với đó, thực hiện quản lý chặt chẽ nghĩa vụ nợ dự phòng, vay nợ của chính quyền địa phương và các rủi ro tài khóa có liên quan đến nền kinh tế.