Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế và kiến nghị khi áp dụng tại Việt Nam

Nguyễn Hoàng Long - Cục Quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán (Bộ Tài chính)

Hiện nay, các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế hoạt động tại Việt Nam đều áp dụng Chuẩn mực kế toán Việt Nam cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Chuẩn mực kế toán đã góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, nâng cao tính minh bạch, trung thực của báo cáo tài chính... Tuy nhiên, qua hơn 10 năm thực hiện đến nay, Chuẩn mực kế toán đã bộc lộ nhiều hạn chế. Việc chuyển đổi từ Chuẩn mực kế toán sang Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế bước đầu là thách thức, tuy nhiên về dài hạn là một yếu tố quan trọng giúp cho các doanh nghiệp ở Việt Nam có cơ hội để phát triển, hội nhập quốc tế.

Đặt vấn đề

Báo cáo tài chính (BCTC) của doanh nghiệp (DN) dùng để cung cấp thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của một DN, đáp ứng yêu cầu quản lý của chủ DN, cơ quan Nhà nước và nhu cầu hữu ích của những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Hiện nay, tất cả các DN thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế hoạt động tại Việt Nam đều đang áp dụng Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) cho việc lập và trình bày BCTC.

VAS đã góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, góp phần nâng cao tính minh bạch, trung thực của BCTC là bước tiến lớn trong sự nghiệp cải cách kế toán tại Việt Nam. Tuy nhiên, do đã ban hành cách đây hơn 10 năm, chưa được sửa đổi, bổ sung nên VAS ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, một số nội dung chưa phù hợp với các giao dịch của kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, nhiều giao dịch phức tạp hiện nay.

Trong xu hướng toàn cầu hóa về hợp tác và phát triển kinh tế, kế toán và việc lập, trình bày BCTC không còn là vấn đề mang tính nội tại, riêng biệt của từng quốc gia, cùng với đó là hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng trở nên sôi động, nhu cầu của các DN Việt Nam niêm yết hoặc thu hút vốn trên thị trường quốc tế ngày càng gia tăng. Tại tất cả các quốc gia đang áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) hiện nay, định hướng chung đều áp dụng IFRS cho BCTC hợp nhất của các đơn vị có lợi ích công chúng, các đơn vị có quy mô lớn còn đối với các đơn vị quy mô nhỏ hoặc không có lợi ích công chúng thì có thể lựa chọn áp dụng chuẩn mực BCTC quốc gia hoặc tự nguyện áp dụng IFRS để phù hợp với các yêu cầu đa dạng của DN cũng như các nhà đầu tư.

Nhu cầu áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Qua khảo sát thăm dò ý kiến giai đoạn từ năm 2016 đến nay của Bộ Tài chính, hầu hết các DN niêm yết, các DN nhà nước, các đơn vị có lợi ích công chúng khác thuộc lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, các trường đại học, các công ty dịch vụ kế toán và kiểm toán đều cho rằng việc áp dụng IFRS là cấp thiết và rất cần thiết.

Nhiều DN niêm yết lớn chịu áp lực từ nhà đầu tư nước ngoài hoặc các định chế tài chính quốc tế, đặc biệt là khối DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chịu áp lực từ công ty mẹ ở nước ngoài có nhu cầu áp dụng IFRS. Do Việt Nam hiện chưa cho phép áp dụng IFRS nên các đối tượng này đang phải thực hiện chuyển đổi BCTC lập theo VAS sang IFRS để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhu cầu áp dụng IFRS của khối DN niêm yết quy mô lớn và các DN FDI là thực tế khách quan.

Tác động và lợi ích của việc áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế

Lợi ích cơ bản của việc áp dụng IFRS cho Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm tại các quốc gia đã triển khai áp dụng thành công gồm:

Thứ nhất, đối với các DN, việc áp dụng IFRS sẽ được quốc tế thừa nhận và tạo dựng được lòng tin của cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện để DN đủ điều kiện niêm yết trên thị trường quốc tế hoặc nhận được các khoản vay ưu đãi từ các tổ chức, định chế tài chính quốc tế. Các DN FDI là công ty con của các tập đoàn xuyên quốc gia sẽ không phải mất thêm chi phí để chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRS cho mục đích hợp nhất BCTC với công ty mẹ ở nước ngoài.

IFRS yêu cầu BCTC của các DN phải được trình bày cho mục đích chung một cách trung thực và hợp lý mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Ban giám đốc hoặc ban lãnh đạo DN để đáp ứng nguyên tắc cơ bản của IFRS là yêu cầu các khoản mục của BCTC phải được ghi nhận và trình bày theo bản chất hơn là hình thức. Việc này sẽ giảm thiểu tác động của hình thức giao dịch đến phương pháp kế toán, từ đó làm tăng khả năng so sánh giữa BCTC của DN tại Việt Nam với các DN khác trong khu vực và thế giới.

Về công tác quản trị, điều hành của DN, thông tin tài chính được cung cấp trên nền tảng IFRS giúp DN đánh giá được tình hình tài chính tại thời điểm báo cáo cũng như giúp ban giám đốc có được những thông tin phục vụ tốt hơn cho việc dự báo kết quả hoạt động và dòng tiền trong tương lai, từ đó có căn cứ và công cụ để thực hiện công tác quản trị, điều hành phù hợp với tình hình thực tiễn hoạt động của DN.

Thứ hai, đối với các cơ quan quản lý nhà nước, việc áp dụng IFRS giúp hạn chế tối đa những động thái can thiệp vào các thông tin được trình bày trên BCTC dẫn đến việc đánh giá tình trạng tài chính của DN có thể bị méo mó và không phản ánh, cung cấp thông tin hữu ích đầy đủ cho công chúng, là những đối tượng đa dạng trên thị trường như nhà đầu tư, bên cho vay, người cung cấp, khách hàng, cơ quan quản lý Nhà nước.

Khi áp dụng IFRS, BCTC được tiếp cận theo hướng đề cao tôn trọng sự trung thực khách quan của thông tin tài chính được công bố, được lập và trình bày theo các nguyên tắc phổ biến được chấp nhận rộng rãi; Phân định rõ ranh giới giữa các quy định của cơ chế tài chính và chuẩn mực BCTC; Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ hoạch định chính sách của các cơ quan quản lý Nhà nước, tránh tình trạng vẫn có hiện tượng chồng chéo như hiện nay và hạn chế đưa ra các quy định áp dụng cá biệt.

Thứ ba, đối với ngân sách nhà nước (NSNN), mặc dù có sự khác biệt giữa chuẩn mực BCTC và chính sách thuế nhưng BCTC vẫn luôn là một trong những căn cứ quan trọng để xác định thu nhập chịu thuế của DN. Khi áp dụng IFRS, việc lập và trình bày BCTC được tiếp cận trên quan điểm thận trọng nên chất lượng BCTC của DN được cải thiện, thông tin trở nên minh bạch và trung thực thì việc xác định nghĩa vụ của DN với Nhà nước cũng trở nên tin cậy hơn, góp phần đáng kể vào việc thu đúng, thu đủ và gia tăng NSNN.

Một số kiến nghị triển khai áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam

Ngày 29/11/2024, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật NSNN, Luật Quản lý, sử dụng Tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Dự trữ quốc gia, Luật xử lý vi phạm hành chính tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV. Trong đó, sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 7 Luật Kế toán năm 2015 về chuẩn mực kế toán như sau: Bộ Tài chính quy định chuẩn mực kế toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán của Việt Nam trên cơ sở chuẩn mực quốc tế về kế toán phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam; hướng dẫn đối tượng, phạm vi, thể thức, lộ trình và các nội dung khác liên quan đến việc áp dụng chuẩn mực quốc tế về kế toán.

Việc áp dụng IFRS ở Việt Nam mang tính tất yếu khách quan và cần thiết, tạo bước ngoặt căn bản cho công tác tài chính, kế toán tại DN, mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế, phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế hiệu quả, bền vững. Để áp dụng thành công IFRS tại Việt Nam, cần triển khai một số nội dung việc sau:

Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, kế toán.

Bộ Tài chính và các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn đối tượng, phạm vi, thể thức, lộ trình thực hiện IFRS cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của Việt Nam; Xây dựng các tài liệu hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ kế toán giúp cho các đối tượng liên quan có thể tiếp cận, nghiên cứu và triển khai thực hiện IFRS; Rà soát, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính theo các mục tiêu cải cách, tạo sự bình đẳng trong việc áp dụng và thực thi pháp luật giữa các thành phần kinh tế; xác định và phân biệt rõ phạm vi áp dụng của chuẩn mực BCTC và cơ chế tài chính, hạn chế vướng mắc trong việc lập và trình bày BCTC và thực hiện các nghĩa vụ của DN; Ban hành các văn bản và tổ chức hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ pháp luật về kế toán, các chuẩn mực BCTC; thống nhất và thừa nhận việc DN khi thực hiện lập và trình bày BCTC theo IFRS sẽ không phải lập thêm BCTC theo VAS.

Hai là, xây dựng quy trình chuyển đổi dữ liệu và chuẩn bị của các DN khi thực hiện chuyển đổi từ VAS sang IFRS.

- Hệ thống công nghệ thống tin: Chuẩn bị cơ sở vật chất để tổ chức lại và nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin về kế toán; Xây dựng quy trình để thực hiện chuyển đổi dữ liệu từ VAS sang IFRS tuân thủ theo IFRS 01 - Lần đầu áp dụng IFRS; Dự trù trước các ảnh hưởng tiêu cực (nếu có) đến các chỉ số tài chính khi BCTC được chuyển đối sang IFRS đế sớm có những kế hoạch phản ứng phù hợp. Việc chuyển đổi dữ liệu cần phải có quy trình từng bước thực hiện có trình tự ưu tiên và vừa đủ thay vì tiêu tốn nhiều nguồn lực hơn mức cần thiết và cần có thời gian đủ dài để chuẩn bị các nội dung liên quan. DN nên thuê các chuyên gia về IFRS để được tư vấn thực hiện nội dung này một cách chính xác và hiệu quả nhất để bảo đảm DN làm đúng ngay từ bước đầu tiên chuyển đổi.

- Kỳ báo cáo đầu tiên: Xác định kỳ báo cáo đầu tiên theo IFRS để xây dựng lộ trình công bố thông tin tương ứng khi đã quyết định là sẽ áp dụng IFRS. DN cần xác định năm lần đầu áp dụng IFRS vì sẽ liên quan đến yêu cầu phải công bố thông tin ở các năm trước đó. Theo quy định của IFRS 01, DN lần đầu tiên lập và trình bày BCTC theo IFRS: “DN lập và trình bày một báo cáo về tình hình tài chính theo IFRS đầu kỳ tại ngày chuyển đổi sang IFRS. DN sẽ áp dụng nhất quán các chính sách kế toán trong báo cáo về tình hình tài chính theo IFRS đầu kỳ và trong tất cả các kỳ được trình bày trong bộ BCTC theo IFRS đầu tiên”.

- Về đào tạo nguồn nhân lực: DN cần tổ chức đào tạo đội ngũ kế toán có kiến thức về IFRS ở cả công ty mẹ và công ty con trọng yếu trong tập đoàn; Cải thiện hiểu biết các nhân sự liên quan bao gồm Ban giám đốc, người chịu trách nhiệm phê duyệt BCTC và các cán bộ quản lý chủ chốt để bảo đảm có sự phối hợp tốt với bộ phận kế toán khi được yêu cầu cung cấp hay giải trình các thông tin và dữ liệu.

Về phía các cơ sở đào tạo, sớm đưa IFRS vào chương trình giảng dạy tại hệ thống các cơ sở đào tạo nghề nghiệp, ít nhất là trong các trường đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán khối đại học. Công tác này cần được chuẩn bị bài bản từ các khâu viết giáo trình, tài liệu học tập, tài liệu tham khảo, môn học giảng dạy trong chương trình đào tạo chuyên ngành.

Ba là, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các hội nghề nghiệp, các tổ chức khác.

Các cơ quan quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực cần tăng cường phối hợp, phối hợp với các hội nghề nghiệp, tổ chức trong nước và quốc tế trong việc công bố và hỗ trợ áp dụng IFRS. Về phía các hiệp hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, cần nâng cao vai trò trong việc đào tạo, giảng dạy, tập huấn, phổ biến kiến thức của IFRS cho đội ngũ nhân lực trong ngành, hỗ trợ kỹ thuật cho các DN áp dụng.

Bốn là, tuyên truyền về lộ trình, phương án áp dụng IFRS.

Các cơ quan chức năng tăng cường phổ biến, tuyên truyền và tổ chức đối thoại với các DN để truyền thông về lợi ích của IFRS; về lộ trình, cách thức triển khai áp dụng IFRS; động viên, khuyến khích các DN chuyển sang áp dụng IFRS.

Tựu trung, việc chuyển đổi từ VAS sang IFRS của Việt Nam bước đầu là thách thức đối với các DN, tuy nhiên về dài hạn IFRS là một yếu tố quan trọng giúp cho các DN ở Việt Nam có cơ hội để phát triển, hội nhập quốc tế và tiến tới gia nhập ở mức độ cao hơn nữa với các trung tâm tài chính quốc tế trong khu vực và thế giới.

Tài liệu tham khảo:

  1. Quốc hội (2015), Luật Kế toán số 88/2015/QH13 ngày 20/11/2015;
  2. Bộ Tài chính (2020), Quyết định số 345/QĐ-BTC ngày 16/3/2020 phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam;
  3. Bộ Tài chính (2014), Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 hướng dẫn chế độ kế toán DN;
  4. Bộ Tài chính (2014), Thông tư số 202/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 hướng dẫn phương pháp lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 12/2024