Dẫn nguồn vốn lớn cho tín dụng xanh
Để tín dụng xanh phát triển, giới chuyên môn khuyến nghị, Chính phủ và các cơ quan chức năng cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về tài chính xanh phù hợp với thực tiễn Việt Nam và tương thích với thông lệ, chuẩn mực quốc tế để đảm bảo tính thống nhất và minh bạch. Đồng thời, cần hoàn thiện cả khuôn khổ luật lệ cho các ngành kinh tế xanh nói chung và phát triển thị trường tài chính thông thường để tạo nền tảng cho tài chính xanh.
Tại Hội nghị COP26 vào tháng 11/2021, Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Trong quãng thời gian 2 năm từ COP26 đến COP28 diễn ra tại Dubai tháng 11/2023, Việt Nam đã lên kế hoạch để thực hiện các cam kết và một trong những nhiệm vụ quan trọng là huy động nguồn lực tài chính cho quá trình chuyển đổi.
Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam được Ngân hàng Thế giới ước tính, Việt Nam cần đầu tư thêm khoảng 368 tỷ USD đến năm 2040, tương đương 6,8% GDP/năm để thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trong đó, đầu tư vào khả năng phục hồi khoảng 254 tỷ USD và 114 tỷ USD cho hành trình khử carbon theo cam kết với cộng đồng quốc tế. Điều này đòi hỏi Việt Nam sẽ cần khoản đầu tư khổng lồ trong gần 30 năm tới.
Các ngân hàng đã tham gia mạnh mẽ
Phát biểu tại hội thảo “Dẫn nguồn vốn lớn cho tín dụng xanh” do Báo Đầu tư tổ chức với sự đồng hành của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), các chuyên gia trong nước và quốc tế đã nêu bật được nhu cầu về vốn tín dụng xanh, khả năng giải ngân vào các dự án cụ thể của doanh nghiệp, cũng như các vấn đề cần quan tâm trong mở rộng tín dụng xanh nói riêng và tài chính xanh nói chung.
Trong quá trình đó, nhiều ngân hàng tham gia mạnh mẽ và mang lại được những kết quả bước đầu tích cực.
Bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước cho biết, giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm.
Đến ngày 30/9/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt hơn 564 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.
“Trong số 12 lĩnh vực xanh NHNN hướng dẫn các TCTD cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%)”, bà Phạm Thị Thanh Tùng chia sẻ và cho biết: “Các TCTD đã tăng cường đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng với dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt gần hơn 2,67 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 21%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế”.
Dưới góc độ ngân hàng thương mại, bà Phùng Thị Bình, Phó Tổng Giám đốc Agribank cho biết, từ nguồn vốn tài trợ của Agribank, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao đã và đang hình thành trên khắp mọi vùng, miền của đất nước, như mô hình trồng hoa (Lâm Đồng), cánh đồng mẫu lớn (Cần Thơ), cá tra (An Giang), chăn nuôi lợn (Hà Nam), mía (Khánh Hòa), ngô (Sơn La)…, tạo được sự đồng thuận cao giữa doanh nghiệp và người dân.
“Đến nay, doanh số cho vay nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Agribank đạt trên 30.000 tỷ đồng, chiếm 50% tổng nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này, dư nợ đạt 2.000 tỷ đồng với hơn 300 khách hàng (trong đó, hơn 98% khách hàng là cá nhân, chủ trang trại, tổ hợp tác...”, bà Phùng Thị Bình cho biết.
Ngoài ra, Agribank cũng tích cực tham gia nhiều dự án có liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường do Ngân hàng Thế giới (World Bank) và các tổ chức tài chính tài trợ như: Nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học; Dự án nguồn lợi ven biển vì sự phát triển bền vững; Quản lý rủi ro thiên tai; Hỗ trợ nông nghiệp các-bon thấp; Cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng; điện gió; đưa vốn tín dụng vào công cuộc chống hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên…
Chỉ mình ngân hàng là chưa đủ, cần thêm những dòng vốn lớn
Phát biểu tại hội thảo, bà Lâm Thúy Nga, Giám đốc toàn quốc Khối khách hàng Doanh nghiệp lớn, Ngân hàng TNHH Một thành viên HSBC Việt Nam chia sẻ, HSBC đã là cầu nối dẫn vốn xanh vào thị trường Việt Nam với quy mô lên tới 2 tỷ USD.
Trong quá trình làm việc cùng các khách hàng, HSBC nhận thấy nhu cầu vốn tín dụng xanh rất lớn, vừa là xu hướng vừa là vấn đề sống còn, nhiều doanh nghiệp, nhất là nhóm xuất khẩu đang chuyển đổi để phù hợp với thị trường quốc tế.
“Tuy nhiên, để các doanh nghiệp Việt Nam có thể đón nhận dòng vốn xanh thì còn nhiều yếu tố cần cải thiện, nhất là việc đáp ứng các quy chuẩn của thị trường tín dụng quốc tế”, bà Lâm Thúy Nga chia sẻ.
Theo ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam, nhu cầu với nguồn vốn tín dụng xanh của Việt Nam là rất rõ ràng.
Là một quốc gia đang phát triển với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng tăng, đồng thời phải đối mặt với những áp lực lớn từ thiên tai, ô nhiễm môi trường (không khí, nguồn nước) và biến đổi khí hậu, Việt Nam cần lượng vốn lớn đầu tư vào các lĩnh vực xanh, như: Năng lượng tái tạo, chuyển đổi năng lượng, xử lý chất thải…
“Ước tính gần đây của IFC cho rằng, đầu tư cho các hoạt động liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam có thể lên tới 757 tỷ USD vào năm 2030. Trong đó, nguồn vốn tín dụng xanh từ các tổ chức quốc tế đóng vai trò tạo đà cho phát triển thị trường”, ông Nguyễn Bá Hùng cho biết và khẳng định: “Tôi nghĩ rằng Việt Nam đã và hoàn toàn có thể tăng cường hơn nữa việc tiếp nhận nguồn vốn tín dụng xanh từ các tổ chức quốc tế, đáp ứng được nhu cầu phát triển phù hợp với các cam kết của Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Kế hoạch Hành động Quốc gia về Tăng trưởng Xanh giai đoạn 2021-2030, tạo tiền đề cho các hoạt động biến đổi khí hậu và các hoạt động đầu tư xanh có thể phát triển mạnh hơn nữa. Nhiều nguồn vốn xanh của các tổ chức quốc tế có ưu đãi đáng kể, tạo động lực thúc đẩy phát triển thị trường tài chính xanh”.
Tuy nhiên, để thu hút các dòng vốn cho tín dụng xanh, ông Nguyễn Bá Hùng khuyến nghị, Chính phủ và các cơ quan chức năng cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về tài chính xanh phù hợp với thực tiễn Việt Nam và tương thích với thông lệ, chuẩn mực quốc tế để đảm bảo tính thống nhất và minh bạch.
Đồng thời, cần hoàn thiện cả khuôn khổ luật lệ cho các ngành kinh tế xanh nói chung và phát triển thị trường tài chính thông thường để tạo nền tảng cho tài chính xanh.
Cùng chung quan điểm, bà Phạm Thị Thanh Tùng cũng cho rằng, để tín dụng xanh phát triển cần tiếp hoàn thiện hành lang pháp lý để: Có hướng dẫn về Danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam làm cơ sở cho các TCTD có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.
Xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh.
Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh….
Bổ sung thêm các khuyến nghị, bà Phùng Thị Bình đề nghị, cần tiếp tục huy động các nguồn lực để thực hiện chính sách tín dụng xanh tại Việt Nam.
Tăng cường chủ động tiếp cận nguồn vốn quốc tế xanh thông qua các bộ, ban, ngành đầu mối hoặc tiếp cận trực tiếp các định chế tài chính, tổ chức phi chính phủ, huy động vốn qua hình thức phát hành trái phiếu xanh để tài trợ các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn, tiết kiệm năng lượng.
Đồng thời, thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh. Điều này góp phần giúp các ngân hàng thu hút được nhiều đối tượng khách hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh…
Để triển khai thành công chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và bền vững cần có sự tham gia đồng bộ của tất cả các cơ quan, ban, ngành, từ trung ương đến địa phương.
Nếu chỉ một mình ngành Ngân hàng thì không khác gì chúng ta “vỗ tay bằng một bàn tay” thì không thể thực hiện được chiến lược quan trọng này”, bà Phùng Thị Bình nhấn mạnh.