Để doanh nghiệp nhà nước tiếp tục giữ vững vị trí “đầu tàu” của nền kinh tế
Đặt ra những vấn đề nhằm cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước luôn là một trong những nhiệm vụ cần ưu tiên hàng đầu. Bởi doanh nghiệp nhà nước chỉ có thể thực hiện vai trò nòng cốt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng chính năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng.
Khái quát những thành tựu và hạn chế cơ bản
Trải qua nhiều giai đoạn hình thành và phát triển, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) luôn đồng hành với quá trình xây dựng nền kinh tế của đất nước. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, DNNN và kinh tế hợp tác xã đóng vai trò chủ yếu của nền kinh tế. Bước sang giai đoạn đổi mới với nền kinh tế nhiều thành phần, DNNN vẫn giữ vững vai trò quan trọng, là một trong ba trụ cột của nền kinh tế.
So với kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, DNNN vẫn là lực lượng vật chất có tiềm lực mạnh về tài chính, nắm giữ tài nguyên, đất đai, thương hiệu, lực lượng lao động, có đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, quản lý hùng hậu. Ngày nay, DNNN chuyển dịch theo hướng chỉ tập trung vào những ngành, nghề then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh vực mà doanh nghiệp tư nhân không đầu tư.
Những DNNN được tiếp tục phát triển là những doanh nghiệp có quy mô lớn, tính chất chuyên môn cao, hoạt động trong những lĩnh vực mà xã hội có nhu cầu lớn để thực sự là lực lượng nòng cốt thực hiện những cân đối lớn trong nền kinh tế, thực hiện được các mục tiêu chính trị - xã hội của Đảng, Nhà nước.
Trong giai đoạn vừa qua, sau khi sắp xếp, cổ phần hóa, hiện có 652 DNNN, trong đó gồm 9 tập đoàn và 65 tổng công ty, chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, bảo đảm cân đối vĩ mô cho nền kinh tế, công ích, an ninh, quốc phòng.
Việc bảo toàn và tăng trưởng vốn là đáng khích lệ, khi chỉ trong 5 năm, từ năm 2011 đến 2016, tổng tài sản của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước tăng từ 2.093 nghìn tỷ đồng lên đến 3.053 nghìn tỷ đồng, tăng 45,8%; vốn chủ sở hữu tăng từ 727 nghìn tỷ đồng lên 1.398 nghìn tỷ đồng, tăng 92,2%.
Hiệu quả kinh doanh của DNNN xét trên tiêu chí lợi nhuận tạo ra, nộp ngân sách nhà nước có kết quả khá tích cực. Nổi lên trong giai đoạn 2011 - 2016 có những DNNN nộp ngân sách lớn, như Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam: 147.941 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp viễn thông quân đội: 131.400 tỷ đồng, cùng với các DNNN khác đã nộp ngân sách nhà nước trên 1 triệu tỷ đồng.
Việc quản lý, sử dụng tài sản tại nhiều doanh nghiệp về cơ bản được thực hiện theo đúng quy định pháp luật. Chất lượng tài sản của doanh nghiệp từng bước được nâng cao. Nhiều doanh nghiệp chú trọng nâng cấp, đổi mới ứng dụng và làm chủ công nghệ, trang thiết bị đã tạo điều kiện tăng năng suất, chất lượng, tiết kiệm vật liệu, bảo đảm chất lượng sản phẩm và hiệu quả đầu tư cao nhất, góp phần không nhỏ vào kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Công tác điều hành và giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng minh bạch và đạt hiệu quả hơn, doanh nghiệp kịp thời chấn chỉnh những yếu kém nhằm nâng cao trách nhiệm trong việc chấp hành pháp luật.
Ngoài ra, các DNNN còn thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội trong một số lĩnh vực, làm “đầu tàu”, tạo động lực phát triển để thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia, đóng góp tích cực vào chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, chung tay xây dựng nông thôn mới, tham gia các hoạt động tại địa phương, góp phần vào việc ổn định an ninh, chính trị, an sinh xã hội trên địa bàn, đóng góp lớn cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Doanh nghiệp nhà nước vẫn là nơi mà tiền lương, thu nhập và quyền lợi của người lao động được bảo đảm nhất. Các tổ chức đảng, công đoàn, tổ chức chính trị - xã hội khác hoạt động mạnh mẽ, thể hiện rõ được vai trò, vị trí của mình trong các DNNN.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong giai đoạn vừa qua, hiệu quả hoạt động của DNNN còn chưa tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ.
Doanh thu, lợi nhuận trước thuế và nộp ngân sách nhà nước có tốc độ tăng chậm, chưa thực sự phát huy được vai trò nòng cốt trong nền kinh tế cũng như chưa làm tốt được nhiệm vụ dẫn dắt, thúc đẩy các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển, tạo động lực phát triển kinh tế.
Một số DNNN hoạt động yếu kém, thua lỗ, còn để xảy ra tình trạng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản nhà nước. Việc cơ cấu lại các doanh nghiệp hoạt động thua lỗ, các dự án doanh nghiệp đầu tư không hiệu quả ở nhiều nơi còn chậm nên hậu quả ngày càng nghiêm trọng.
Hoạt động đầu tư ra ngoài doanh nghiệp còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, trong lúc năng lực quản lý và khả năng tài chính còn hạn chế, thiếu kiểm soát chặt chẽ, làm phân tán nguồn lực, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Nhiều DNNN chưa chú trọng đầu tư theo chiều sâu, chậm đổi mới về công nghệ, trang thiết bị, kỹ thuật sản xuất, nâng cao năng suất lao động, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ. Việc công khai thông tin trong DNNN còn hạn chế, không kịp thời, còn mang tính hình thức. Công tác giám sát đối với DNNN tuy đã được phân công, phân cấp nhưng hiệu quả công tác giám sát chưa cao.
Công tác thanh tra, kiểm tra chưa tốt. Hệ thống thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ của một số doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thậm chí bị tê liệt, không phản ứng và cảnh báo kịp thời khi xảy ra các sai phạm. Nhiều vụ, việc sai phạm thời gian vừa qua đều được phát hiện sau thanh tra, kiểm toán của Nhà nước nên việc khắc phục hậu quả rất khó khăn.
Một cách rất khái quát, có thể nói những hạn chế, yếu kém của DNNN trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước trong thời gian qua chủ yếu là do vi phạm nguyên tắc thị trường, nguyên tắc quản trị doanh nghiệp, nguyên tắc quản lý tài chính, nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong kinh doanh.
Những tồn tại, yếu kém đó của DNNN có nhiều nguyên nhân, nhưng không phải nguyên nhân mang tính hệ thống của DNNN, mà chính là do cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, cơ chế kiểm soát còn nhiều bất cập, đội ngũ quản lý, bộ máy quản lý chưa ngang tầm. Các DNNN cũng chậm được đổi mới theo xu thế thị trường, không chịu thoát ly khỏi những đặc quyền, đặc lợi, vị thế độc quyền nhà nước.
Mặc dù còn có những mặt tồn tại, yếu kém song vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là không thể phủ định. Doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hình thành và phát triển gặp nhiều thách thức, khó khăn cũng là một tất yếu, không thể tránh khỏi trên con đường tự khẳng định mình.
Để doanh nghiệp nhà nước là “đầu tàu” của nền kinh tế
Về mặt nhận thức, chúng ta đều thấy rõ kinh tế quốc doanh có vai trò rất quan trọng cùng với kinh tế hợp tác xã là nền tảng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi nào hai thành phần kinh tế này hoạt động thực sự hiệu quả thì nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mới được xác lập một cách đầy đủ.
Nhưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế của chúng ta có sự đan xen giữa các thành phần kinh tế và sẽ không có thành phần kinh tế nào chiếm giữ vị trí độc tôn và chủ yếu trong nền kinh tế. Do vậy, cuộc cạnh tranh để khẳng định vai trò của kinh tế quốc doanh đang diễn ra hết sức khó khăn và phức tạp.
Trong nhận thức mới với một nội hàm rộng hơn là kinh tế nhà nước mà trong đó DNNN giữ vai trò nòng cốt, cùng với các tiềm lực kinh tế, tài chính khác, như ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính và các nguồn lực về tài nguyên, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, rõ ràng kinh tế nhà nước sẽ giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, không một thành phần kinh tế nào có thể so sánh được.
Cùng với các chính sách của Nhà nước, kinh tế nhà nước sẽ dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế đó là mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở. Mối quan hệ này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin xác định.
Mặc dù vậy, kinh tế nhà nước muốn giữ được vai trò chủ đạo, dẫn dắt nền kinh tế, với vai trò nòng cốt DNNN phải chiến thắng chính mình để vươn lên, thậm chí phải chuyển hóa một bộ phận trở thành tư bản nhà nước, tham gia góp vốn cổ phần vào các doanh nghiệp hoặc tiến hành cổ phần hóa.
Với việc tham gia như vậy, như V.I. Lê-nin nói, trong “tư bản nhà nước” đã có “ba phần tư là chủ nghĩa xã hội”. Các nước từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa bắt buộc phải đi qua “hai cái trạm” là “tư bản nhà nước và kiểm kê - kiểm soát”.
Tư bản nhà nước với sự tham gia vốn hỗn hợp của cả nhà nước và tư nhân là một giai đoạn quá độ, để việc sử dụng tài nguyên vốn của toàn xã hội được năng động hơn, hiệu quả hơn. Do vậy, cần phải nhận thức rằng DNNN không chỉ là những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước mà cả những doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối.
Về mặt thực tiễn, trên thế giới, DNNN là loại hình doanh nghiệp khá phổ biến ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển, như Mỹ, Đức, Anh, Pháp, Niu Di-lân,... hầu hết là quy mô lớn hoặc rất lớn, nhất là trong phát triển và khai thác kết cấu hạ tầng kỹ thuật, khai khoáng, tài chính, môi trường, bưu chính viễn thông, dịch vụ công...
Thậm chí, ở một số nước, DNNN sau khi cổ phần hóa, chuyển cho tư nhân quản lý, nhưng không có hiệu quả, gây bức xúc cho xã hội, lại được nhà nước mua lại để tổ chức khai thác, phục vụ cho xã hội.
Vấn đề định hướng phát triển DNNN cũng được tổng kết, đúc rút qua từng giai đoạn ở nước ta. Đại hội VI của Đảng đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong đổi mới kinh tế nói chung, trong đó có các xí nghiệp quốc doanh.
Văn kiện Đại hội VI nêu rõ: “Phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế...”. Tiếp đó, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, kết luận thể hiện tính nhất quán và sự phát triển sáng tạo trong các quan điểm, chủ trương, mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ của việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới DNNN.
Nghị quyết số 12-NQ/TW được thông qua tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, ngày 03-6-2017, về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, xác định một trong những quan điểm chỉ đạo là:
“Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật.Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước. Tách bạch nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích”.
Đồng thời, Nghị quyết đề xuất giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách để DNNN thật sự vận hành theo cơ chế thị trường, hướng tới bảo đảm đối xử bình đẳng giữa DNNN và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DNNN, quan hệ giữa Nhà nước và DNNN rõ ràng hơn theo cơ chế thị trường nhằm bảo đảm hiệu quả cao nhất của DNNN.
Để đạt được mục tiêu tổng quát “Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp để doanh nghiệp nhà nước giữ vững vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”, cần phải sắp xếp lại hệ thống DNNN theo cơ chế thị trường, đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, Nhà nước chỉ nắm giữ những ngành và lĩnh vực trọng yếu, cốt tử của nền kinh tế quốc dân.
Trong cổ phần hóa, có thể thực hiện Nhà nước bán hết cổ phần hoặc nắm giữ cổ phần chi phối hoặc tham gia cổ phần để dẫn dắt doanh nghiệp, nắm cổ phần không chi phối hoặc chuyển sang doanh nghiệp công ích. Tuy nhiên, Nhà nước cũng có thể duy trì vốn góp tại một số doanh nghiệp hoạt động thật sự hiệu quả để thu lợi từ cổ tức, bổ sung cho ngân sách nhà nước, chi tiêu cho an sinh, phúc lợi xã hội.
Cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp đồng bộ, đầy đủ, kịp thời, chất lượng, trên cơ sở khẩn trương tổng kết, đánh giá và báo cáo Quốc hội để sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan, đặc biệt cần nghiên cứu sửa đổi tiêu chí DNNN theo Nghị quyết số 12-NQ/TW, không để xảy ra khoảng trống pháp lý về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước có cổ phần, vốn góp chi phối.
Chúng ta đối xử với DNNN bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhưng phải quản lý theo một cơ chế riêng có, do đây là vốn và tài sản của Nhà nước, thuộc sở hữu của toàn dân.
Cần phân công và chỉ đạo từng bộ thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước trong ngành, lĩnh vực phụ trách, khắc phục những tồn tại, kiểm điểm, làm rõ những sai phạm của các bộ trong quá trình vừa qua.
Tiếp tục chỉ đạo xử lý nghiêm các sai phạm trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa DNNN; chỉ đạo các bộ, ngành thực hiện các kết luận của Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước.
Tiếp tục chấn chỉnh hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước theo nghị quyết của Đảng và Quốc hội. Kiên quyết xử lý các DNNN, các dự án đầu tư chậm tiến độ, hoạt động thua lỗ, kém hiệu quả.
Xem xét cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong xử lý các vấn đề về tài chính, lao động, chính sách khoa học - công nghệ... nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của một số doanh nghiệp đã cơ cấu lại nhưng tình hình sản xuất, kinh doanh còn chưa khả quan.
Kiện toàn tổ chức bộ máy, quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhằm sớm tách chức năng đại diện chủ sở hữu và chức năng quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước đối với DNNN.
Tổng kết, đánh giá mô hình hoạt động và chức năng, nhiệm vụ của Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước để bảo đảm tuân thủ chủ trương thoái vốn nhà nước đối với các lĩnh vực nhà nước không cần nắm giữ vốn.
Tăng cường thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa DNNN. Xác định tự kiểm soát đóng vai trò quan trọng bảo đảm sức đề kháng của doanh nghiệp thông qua kiểm soát nội bộ công khai, minh bạch và coi đây là vấn đề sống còn của DNNN.
Đổi mới mô hình tổ chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp tại doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong DNNN.
Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phải tự đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm trong bối cảnh mới. Tiếp tục đổi mới quản trị doanh nghiệp, kiện toàn bộ máy quản lý, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ quản lý doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu quản trị trong cơ chế thị trường, lựa chọn những cán bộ đã trải qua các cương vị công tác quản lý được thử thách trong thực tiễn, thực sự có năng lực để lãnh đạo DNNN.
Đào tạo nguồn nhân lực, coi chất lượng lao động là vốn quý của doanh nghiệp. Tập trung vào những ngành, nghề kinh doanh chính.
Xây dựng lộ trình và thực hiện thoái vốn tại các doanh nghiệp có vốn góp, bảo đảm công khai, minh bạch, đem lại lợi ích cao nhất cho Nhà nước. Tích cực triển khai nghiên cứu ứng dụng, đi đầu trong đổi mới khoa học - công nghệ và trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đầu tư đổi mới công nghệ, sản phẩm, dịch vụ nhằm nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ.