Sửa luật để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

Nga Phạm

Để phù hợp với thực tiễn, cũng như đáp ứng nhu cầu hội quốc tế, các chuyên gia cho rằng cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (TC&QCKT). Việc sửa đổi, bổ sung Luật không chỉ là đòi hỏi khách quan nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, mà còn hướng đến mục tiêu tạo dựng được một hành lang pháp lý để các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp nhiều hơn vào quá trình tiêu chuẩn hóa, xây dựng quy chuẩn kỹ thuật, từ đó, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Sửa đổi, bổ sung Luật nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Sửa đổi, bổ sung Luật nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

Đảm bảo yêu cầu minh bạch hoá

Tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật TC&QCKT, Bộ Khoa học và Công nghệ-cơ quan chủ trì soạn thảo, định hướng sửa đổi, bổ sung 9 chính sách, trong đó bao gồm đảm bảo thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng và triển khai đầy đủ các cam kết quốc tế về yêu cầu minh bạch hoá; Xây dựng chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia; Thúc đẩy xã hội hóa trong hoạt động xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn; Tăng cường tính hiệu quả của hoạt động đánh giá sự phù hợp …

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, việc sửa đổi Luật TC&QCKT hướng tới sửa đổi, bổ sung một số quy định về hoạt động xây dựng, công bố và áp dụng tiêu chuẩn; xây dựng, ban hành và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật; đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.

Theo đó, trong 11 nhóm nội dung sửa đổi, bổ sung, Luật lần này tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật để nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trong các hoạt động hợp tác quốc tế về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; đồng thời thúc đẩy, khuyến khích cho các tổ chức, cá nhân tham gia vào các hoạt động tiêu chuẩn hóa quốc tế.

Đồng thời, bổ sung quy định về minh bạch hóa phù hợp với các cam kết trong FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết, là thành viên. Bổ sung quy định về cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc gia phù hợp với các cam kết trong FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết, là thành viên. Bổ sung quy định về hạ tầng chất lượng quốc gia phù hợp với thông lệ quốc tế.

Cụ thể, đối với nội dung liên quan đến minh bạch hóa và hoạt động thông báo, hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại, Luật sửa đổi, bổ sung Điểm đ Khoản 4 Điều 6 quy định bảo đảm sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào quá trình xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Bên cạnh đó, bổ sung Điều 8d về minh bạch hóa và hoạt động thông báo, hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Cụ thể,  nguyên tắc về minh bạch hóa phù hợp với các cam kết quốc tế; quy định về chính sách đối với hoạt động thông báo, hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại phù hợp với các cam kết quốc tế; quy định về vị trí, vai trò của cơ quan đầu mối và mạng lưới về thi hành các nghĩa vụ của hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) và các cam kết về TBT trong các FTA. Đối với nội dung liên quan đến hội nhập quốc tế, dự thảo  đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 8.

Theo đó, bổ sung khoản 3 quy định Nhà nước có chính sách thúc đẩy sự tham gia của Việt Nam vào các hoạt động xây dựng tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực; hỗ trợ các tổ chức, cá nhân tham gia là thành viên chính thức của các ban kỹ thuật tiêu chuẩn hóa quốc tế. Đồng thời, quy định Nhà nước có cơ chế, tạo điều kiện để xây dựng thành tiêu chuẩn quốc tế đối với các sản phẩm trọng điểm, ưu tiên, chủ lực, đặc thù của Việt Nam.

Cơ quan soạn thảo đề xuất bổ sung khoản 14 khái niệm “Cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc gia” theo hướng quy định vị trí, chức năng chung của cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc gia; quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc gia được Chính phủ quy định chi tiết.

Để giải quyết trong công tác định hướng, kế hoạch tổng thể, xây dựng và triển khai áp dụng tiêu chuẩn của Việt Nam, cơ quan soạn thảo đề xuất  quy định nội dung cơ bản, vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ trì xây dựng chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia trong từng thời kỳ xây dựng chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhằm định hướng phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, an toàn môi trường; thúc đẩy hợp tác, ứng dụng công nghệ mới; giảm thiểu các rào cản kỹ thuật trong thương mại; nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Tạo điều kiện thúc đẩy xã hội hóa

Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo luật đó là sẽ xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào quá trình xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn. Theo đó, dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều 7 theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn.

Cụ thể, bổ sung khoản 4 theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, ưu tiên sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo của các viện nghiên cứu, trường đại học, hiệp hội, hội, doanh nghiệp để xây dựng thành tiêu chuẩn quốc gia.

Đồng thời, bổ sung khoản 5 quy định tập trung nguồn lực để xây dựng, phát triển, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia nhằm triển khai hiệu quả các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển ngành, chương trình, đề án trọng điểm quốc gia.

Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo các quy định về hoạt động đánh giá sự phù hợp, tương thích với các cam kết trong FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết hoặc là thành viên, dự thảo luật đề xuất quy định thống nhất các khái niệm, nguyên tắc hoạt động về đánh giá sự phù hợp giữa Luật TC&QCKT với Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa;  quy định phạm vi, quyền, nghĩa vụ của tổ chức đánh giá sự phù hợp theo quy định của các FTA.

Theo ông Nguyễn Văn Khôi – Vụ trưởng Vụ Tiêu chuẩn, Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, việc sửa đổi, bổ sung 11 chính sách trong dự thảo luật sẽ góp phần thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng, triển khai đầy đủ các cam kết quốc tế về yêu cầu minh bạch hoá.

Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách thúc đẩy sự tham gia của Việt Nam vào các hoạt động xây dựng TCQT, TCKV. Nhà nước có cơ chế hỗ trợ để xây dựng thành tiêu chuẩn quốc tế đối với các sản phẩm trọng điểm, ưu tiên, chủ lực, đặc thù của Việt Nam.