Thực hiện chính sách tiền tệ và quản lý ngoại tệ trong bối cảnh lạm phát có xu hướng tăng nhanh

Phạm Thanh Hà - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thời gian qua, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô. Thực hiện chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước về cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, phát triển nhanh, bền vững trên nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, từ năm 2011 đến nay, việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đạt nhiều kết quả tích cực, tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc kinh tế - tài chính từ bên ngoài.

Kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô là cơ sở quan trọng nhất trong việc thúc đẩy niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào giá trị đồng nội tệ.
Kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô là cơ sở quan trọng nhất trong việc thúc đẩy niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào giá trị đồng nội tệ.

Điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững tại Việt Nam

Dưới sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời của Đảng, sự giám sát hiệu quả của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, thời gian qua, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô.

Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát phù hợp với mục tiêu, thị trường tài chính, tiền tệ ổn định. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,0%/năm, cao hơn mức bình quân 5,9%/năm giai đoạn 2011 - 2015, là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Các cân đối vĩ mô được giữ vững trên cơ sở củng cố ngân sách nhà nước (NSNN), kiểm soát nợ công, nợ nước ngoài; dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao kỷ lục, tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc từ thị trường quốc tế.

Môi trường kinh doanh được cải thiện, tiềm năng tăng trưởng tích cực giúp Việt Nam đón nhận xu hướng dịch chuyển của chuỗi giá trị toàn cầu và được nhiều tổ chức quốc tế nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng cao, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, chế biến, chế tạo, đem lại thặng dư thương mại quốc tế, cải thiện năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Thành công của công cuộc chống lạm phát được thể hiện rõ trong giai đoạn 2011  - 2015. Đảng và Nhà nước đề ra nhiều chủ trương cụ thể trong kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, tạo tiền đề thuận lợi cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong thực hiện nhiệm vụ. Chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, cùng với những yếu kém tích tụ qua nhiều năm của nội tại nền kinh tế, ngay từ năm đầu của giai đoạn này, Việt Nam đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen, như lạm phát tăng cao (từ 9,2% năm 2010 tăng vọt tới 18,6% năm 2011, trong đó tháng 8-2011 lên đến 23% so với cùng kỳ).

Các cân đối lớn của nền kinh tế bị phá vỡ. Thâm hụt cán cân thương mại ở mức cao, gây áp lực lên dự trữ quốc gia, tác động tới tỷ giá USD/VND, đồng thời làm gia tăng nguy cơ lạm phát đối với nền kinh tế. Thị trường tiền tệ, ngoại hối và thị trường vàng có nhiều biến động với mặt bằng lãi suất cho vay ở mức cao lên đến 20 - 25%/năm, thanh khoản của hệ thống tổ chức tín dụng căng thẳng, dự trữ ngoại hối giảm, tình trạng USD hóa, vàng hóa có xu hướng tăng trong bối cảnh lạm phát và bất ổn vĩ mô gia tăng.

Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã khẩn trương, kịp thời ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP, ngày 24/2/2011, “Về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội”, đưa ra giải pháp một cách toàn diện, đồng bộ, đáp ứng kịp thời đòi hỏi thực tiễn, nhấn mạnh yêu cầu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho người nghèo trước những điều chỉnh lớn của nền kinh tế trong điều kiện giá cả tăng.

Cụ thể: 1- Về chính sách tiền tệ, giảm lượng cung tiền và giảm tốc độ tăng tín dụng (bảo đảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán 15  - 16% và kiềm chế tín dụng tăng dưới 20%), chỉ đạo tập trung vốn tín dụng cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, chứng khoán...; điều hành lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường; 2- Về chính sách tài khóa, giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên cơ sở phấn đấu tăng thu ngân sách khoảng 7 - 8% và giảm chi thường xuyên 10% so với dự toán; rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại, nâng cao hiệu quả đầu tư công; 3- Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng; 4- Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với công tác an sinh xã hội, hỗ trợ hộ nghèo; 5- Tăng cường bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội; 6- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. Tiếp đó, Kết luận số 02-KL/TW, ngày 16/3/2011, của Bộ Chính trị, “Về tình hình kinh tế - xã hội năm 2011” là minh chứng rõ về sự thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân và toàn hệ thống chính trị về việc ưu tiên mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định tình hình kinh tế vĩ mô, bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững.

Để triển khai chủ trương của Đảng, Nhà nước, các văn bản pháp luật về điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) hướng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô được rà soát, sửa đổi kịp thời. Năm 2010, Quốc hội đã ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thay thế Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997, có hiệu lực từ năm 2011, xác định rõ hơn vai trò, vị thế của NHNN và mục tiêu CSTT là ổn định giá trị đồng tiền, biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát. Đây là kim chỉ nam giúp điều hành CSTT của NHNN tập trung và đã đạt được những kết quả tích cực trong thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ chống lạm phát và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô không được triển khai một cách đơn lẻ, mang tính tạm thời mà được Đảng và Nhà nước đặt trong một tổng thể nhất quán về phát triển kinh tế - xã hội bền vững, kiên định và xuyên suốt qua các giai đoạn khác nhau.

Các chỉ đạo tổng thể về kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô được đặt ra song song với chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu, cơ cấu lại kinh tế, thực hiện các đột phá chiến lược và được thống nhất về tư tưởng và hành động ở tất cả các cấp, thể hiện tại Nghị quyết Đại hội  XI, XII, XIII của Đảng, nghị quyết của Quốc hội các khóa và các nghị quyết của Chính phủ.

Theo đó, tiếp nối giai đoạn 2011  - 2015 về việc chuyển hướng chính sách kịp thời, tổng thể, đồng bộ vào khôi phục nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định, từ năm 2016, sau khi lạm phát đã ổn định và được kiểm soát, các cân đối kinh tế vĩ mô được bảo đảm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều thể hiện rõ sự tập trung, kiên định vào củng cố các nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển các động lực tăng trưởng kinh tế dài hạn, nhất là thúc đẩy cơ cấu lại kinh tế; tăng cường hội nhập trên cơ sở bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, môi trường kinh doanh, phát triển kinh tế tư nhân, tăng năng suất, hiệu quả của nền kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế số và kinh tế xanh. Nhờ thế, lạm phát được kiểm soát và điều hành ổn định từ cả góc độ bên cung và bên cầu. Thành công trong kiểm soát, ổn định lạm phát và phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư nước ngoài giúp ổn định kỳ vọng lạm phát, thúc đẩy niềm tin của người dân vào VND, chống đô-la hóa nền kinh tế.

Điều tiết thanh khoản hệ thống tổ chức tín dụng linh hoạt, bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ, chủ động kiểm soát tiền tệ để kiểm soát lạm phát

Các công cụ CSTT được NHNN điều hành đồng bộ, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) trong điều tiết thanh khoản, ổn định thị trường tiền tệ, duy trì lượng tiền đưa ra đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhu cầu thanh toán của nền kinh tế, đồng thời bảo đảm phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát. Theo đó, NHNN tập trung:

1- Mua bán giấy tờ có giá linh hoạt hai chiều thông qua nghiệp vụ thị trường mở hằng ngày với lãi suất, kỳ hạn hợp lý trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường và sự dịch chuyển của tiền gửi Kho bạc Nhà nước trong hệ thống ngân hàng để điều tiết tiền tệ, ổn định thị trường liên ngân hàng, kiềm chế lạm phát. Công cụ này đã phát huy tốt vai trò bù đắp về khối lượng vốn thanh khoản thiếu hụt, bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn khả dụng của tổ chức tín dụng, đặc biệt tại các thời điểm nhu cầu thanh khoản của tổ chức tín dụng tăng cao; đồng thời, kịp thời hút tiền về khi vốn khả dụng của hệ thống tổ chức tín dụng dư thừa để kiểm soát tiền tệ;

2- Duy trì ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng ổn định thanh khoản, bình ổn thị trường tiền tệ(1);

3- Tái cấp vốn đối với tổ chức tín dụng để hỗ trợ thanh khoản theo đề nghị của tổ chức tín dụng, bảo đảm thị trường tiền tệ ổn định, hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu được giảm dần trong giai đoạn 2011 - 2020 và giữ ổn định trong năm 2021 để phù hợp với diễn biến của nền kinh tế. Giai đoạn 2020 - 2022, để hỗ trợ nền kinh tế ứng phó với tác động của đại dịch COVID-19, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, NHNN đã triển khai các chương trình tái cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất đối với người lao động (2 chương trình, quy mô lần lượt là 16.000 tỷ đồng và 7.500 tỷ đồng, lãi suất 0%/năm, không tài sản bảo đảm); tái cấp vốn 4.000 tỷ đồng, lãi suất 0% cho các tổ chức tín dụng cho vay, hỗ trợ Tổng Công ty Hàng không Việt Nam. Nhờ đó, hàng trăm nghìn người lao động phải ngừng việc trong đại dịch COVID-19 vẫn được trả lương, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội, giúp doanh nghiệp duy trì lao động để phục hồi sản xuất, kinh doanh sau khi dịch bệnh được kiểm soát.

Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính - tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ

Giai đoạn 2011 - 2015, khi lạm phát tăng cao (năm 2011 ở mức 18,6%), để kiềm chế lạm phát, NHNN đã 5 lần điều chỉnh tăng các mức lãi suất điều hành(2); thực hiện kiểm soát lãi suất trực tiếp (áp dụng quy định trần lãi suất huy động và cho vay) đối với VND và USD để ổn định mặt bằng lãi suất thị trường, từng bước giải quyết căng thẳng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Tuy vậy, do sức ép lạm phát và áp lực thanh khoản, hầu hết các tổ chức tín dụng, dưới nhiều hình thức khác nhau (chi khuyến mại, hoa hồng...), áp dụng lãi suất huy động cao hơn trần lãi suất quy định của NHNN(3), khiến doanh nghiệp vay vốn gặp khó khăn trong trả nợ, làm gia tăng nợ xấu ngân hàng, tiềm ẩn rủi ro cho tổ chức tín dụng.

Để lập lại kỷ cương, kỷ luật thị trường, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN, ngày 7/9/2011, yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm trần lãi suất quy định của NHNN và quy định các biện pháp xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Nhờ đó, tình trạng vi phạm đã được xử lý, căng thẳng thị trường tiền tệ được đẩy lùi.

Từ giữa năm 2012, mặt bằng lãi suất và thị trường tiền tệ ổn định trở lại, các biện pháp hành chính trong điều hành lãi suất từng bước được gỡ bỏ, NHNN nới lỏng dần các quy định, cho phép tổ chức tín dụng chủ động quyết định lãi suất huy động đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, sau đó là kỳ hạn 6 tháng trở lên.

Giai đoạn 2016 - 2019, thị trường tài chính - tiền tệ thế giới diễn biến phức tạp khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và nhiều ngân hàng trung ương các nước, khu vực chuyển hướng tăng lãi suất. Trong bối cảnh đó, bám sát diễn biến thị trường trong nước và nước ngoài, NHNN điều hành linh hoạt CSTT để ổn định và giảm lãi suất khi điều kiện thuận lợi nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Theo đó, sau khi giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong năm 2016, giai đoạn 2017 - 2019, NHNN điều chỉnh giảm 0,5%/năm các mức lãi suất điều hành, giảm 0,2 - 0,5%/năm trần lãi suất huy động các kỳ hạn dưới 6 tháng, giảm 1,0%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên; kết hợp điều tiết và đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các tổ chức tín dụng, duy trì lãi suất thị trường liên ngân hàng phù hợp; chỉ đạo các tổ chức tín dụng rà soát và cân đối khả năng tài chính để áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý nhằm tăng cường khả năng tiếp cận vốn của người dân, doanh nghiệp; đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu để có nguồn lực tiếp tục giảm lãi suất cho vay.

Giai đoạn 2020 - 2022, công tác điều hành lãi suất vừa phản ứng kịp thời với diễn biến dịch bệnh nhằm hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, vừa được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến lạm phát trong nước và quốc tế để góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Năm 2020, ngay khi đại dịch COVID-19 bùng phát, NHNN đã 3 lần giảm lãi suất điều hành trong năm 2020 với tổng mức giảm 1,5 - 2%/năm (là một trong các quốc gia có mức giảm lãi suất lớn nhất khu vực) nhằm giảm chi phí tiếp cận vốn từ NHNN cho tổ chức tín dụng, tạo điều kiện để tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế; đồng thời, chỉ đạo tổ chức tín dụng tiết giảm tối đa chi phí hoạt động để tập trung giảm lãi suất cho vay.

Năm 2021 và 8 tháng đầu năm 2022, mặc dù lãi suất thế giới tăng, nhưng NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện để tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp, qua đó có điều kiện giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng phục hồi sản xuất, kinh doanh; chỉ đạo tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn. Nhờ đó, trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng, nhưng lãi suất cho vay bình quân của hệ thống tổ chức tín dụng giảm 1%/năm trong năm 2020 và giảm tiếp 0,8%/năm trong năm 2021.  

Tuy nhiên, trong bối cảnh lạm phát toàn cầu tăng cao, Fed đã 6 lần điều chỉnh tăng lãi suất mục tiêu lên mức 3,75 - 4%/năm và dự báo còn tiếp tục tăng trong năm 2023, đồng USD lên giá mạnh, gia tăng áp lực lên mặt bằng lãi suất và tỷ giá trong nước, tạo sức ép lên lạm phát. Để tiếp tục triển khai đồng bộ các biện pháp, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, NHNN đã điều chỉnh tăng các mức lãi suất trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng nhanh và áp lực lạm phát trong nước gia tăng.

Điều hành tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho nền kinh tế

Sau giai đoạn tín dụng tăng trưởng cao trước năm 2010, từ năm 2011, NHNN xác định quan hệ hợp lý giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng GDP để tính toán tốc độ tăng trưởng tín dụng theo hướng nâng cao chất lượng tín dụng, từng bước đưa hệ thống tổ chức tín dụng thực hiện đúng chức năng cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế.

Trên cơ sở đó, NHNN xác định mục tiêu tăng trưởng tín dụng hằng năm ngay từ đầu năm sát với tình hình thực tế và kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng của hệ thống thông qua việc phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng tổ chức tín dụng dựa trên khả năng mở rộng tín dụng, chất lượng hoạt động và năng lực quản trị rủi ro. Trong quá trình thực hiện, NHNN linh hoạt rà soát, điều chỉnh phù hợp với diễn biến thực tế. Theo đó, cùng với việc giảm mặt bằng lãi suất về khoảng 40% mức cuối năm 2011, tín dụng được kiểm soát hợp lý và khơi thông hiệu quả, hướng vào các lĩnh vực ưu tiên, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Bên cạnh đó, NHNN cũng tích cực thực hiện các giải pháp tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và khả năng tiếp cận tín dụng, như theo dõi sát tình hình cấp tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro để kịp thời đề xuất giải pháp tăng cường kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng.

Kiểm soát chặt chẽ nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ bảo đảm phù hợp với chủ trương hạn chế đô-la hóa nền kinh tế của Chính phủ, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, tỷ giá; phối hợp chặt chẽ với chính quyền các địa phương triển khai chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn vay ngân hàng đối với người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ; chủ động phối hợp các bộ, ngành xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng theo chủ trương của Chính phủ.

Giai đoạn 2020 - 2022, trước tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, NHNN ban hành chính sách (Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 03/2021/TT-NHNN và Thông tư số 14/2021/TT-NHNN) và chỉ đạo tổ chức tín dụng thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi, phí để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người vay vốn bị tác động tiêu cực bởi đại dịch ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề; giúp duy trì dòng tiền cho khách hàng vay; hỗ trợ sản xuất, kinh doanh.

Chính sách này được doanh nghiệp, người dân đón nhận tích cực, được Quốc hội, Chính phủ và các tổ chức quốc tế đánh giá là kịp thời, phù hợp. Từ khi bắt đầu triển khai đến tháng 6-2022 (thời điểm kết thúc chính sách), hệ thống tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho gần 1,1 triệu khách hàng với giá trị nợ lũy kế hơn 722 nghìn tỷ đồng; miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ cho gần 562 nghìn khách hàng với giá trị nợ hơn 92 nghìn tỷ đồng.

Điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô và thị trường, bảo đảm củng cố vị thế VND, neo giữ kỳ vọng và góp phần ổn định lạm phát

Giai đoạn 2011 - 2015, NHNN điều hành tỷ giá để vừa bảo đảm tính linh hoạt khi thị trường căng thẳng, vừa củng cố niềm tin vào đồng Việt Nam khi áp lực trên thị trường giảm bớt. Theo đó, đầu năm 2011, để bình ổn thị trường ngoại tệ trước dấu hiệu căng thẳng, NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 9,3% và giảm biên độ giao dịch từ ±3% xuống ±1%.

Từ năm 2012, thị trường ngoại tệ ổn định hơn, NHNN điều hành tỷ giá theo hướng hằng ngày công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND và USD; đồng thời, công bố mức điều chỉnh tỷ giá tối đa hằng năm (khoảng 1 - 2%) và áp dụng đồng bộ, linh hoạt các biện pháp để đạt được mục tiêu đề ra (điều tiết thanh khoản VND, duy trì chênh lệch lãi suất VND  - USD theo hướng tăng mức hấp dẫn cho VND, áp dụng trần lãi suất huy động USD từ năm 2010 và giảm dần mức trần xuống 0%/năm từ nửa cuối năm 2015, đẩy mạnh truyền thông ổn định tâm lý thị trường, can thiệp ngoại tệ khi cần thiết, hạn chế tín dụng ngoại tệ, siết chặt quản lý ngoại hối), tăng biên độ trở lại mức ±3% trong những tháng cuối năm 2015 khi áp lực gia tăng trên thị trường ngoại tệ với định hướng tăng lãi suất của Fed.

Kết quả giai đoạn này cho thấy, trong bối cảnh lạm phát kỳ vọng ở mức cao, thị trường ngoại tệ biến động, niềm tin vào VND giảm trong giai đoạn trước đó, đồng USD giảm giá trên thị trường thế giới (do Fed triển khai gói kích thích kinh tế (QE) và giữ lãi suất sát 0% trong phần lớn giai đoạn này), cơ chế điều hành tỷ giá giai đoạn này phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô và điều kiện thị trường. Theo đó, tỷ giá và thị trường ngoại tệ nhanh chóng ổn định trở lại từ năm 2012, niềm tin vào VND phục hồi, NHNN mua được ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước.

Từ năm 2016 đến nay, thị trường tài chính toàn cầu biến động phức tạp (Fed tăng lãi suất, USD tăng giá trở lại, CNY giảm giá, Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (Brexit), xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc, đại dịch COVID-19, xung đột Nga - U-crai-na...). Trong bối cảnh đó, thị trường ngoại tệ trong nước đối mặt với nhiều áp lực, dẫn đến cách thức điều hành trước đây không còn phù hợp.

Do vậy, NHNN dừng việc đưa ra định hướng biến động tỷ giá hằng năm và chuyển điều hành tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn để gia tăng khả năng hấp thụ các cú sốc từ bên ngoài, nhưng vẫn bảo đảm sự ổn định, thông suốt của thị trường ngoại tệ. Theo đó, NHNN công bố tỷ giá trung tâm hằng ngày biến động linh hoạt trên cơ sở diễn biến thị trường trong và ngoài nước, các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu CSTT; áp dụng biên độ tỷ giá ±3% từ quý III-2015 (tăng so với mức ±1% trước đó); thực hiện can thiệp mua, bán ngoại tệ với tỷ giá, phương thức (giao ngay, kỳ hạn) linh hoạt nhằm ổn định thị trường, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước trong điều kiện thuận lợi.

Các biện pháp điều hành tỷ giá tiếp tục được phối hợp chặt chẽ với công tác truyền thông và các công cụ CSTT khác cũng như các biện pháp quản lý ngoại hối nhằm bảo đảm thị trường ngoại tệ ổn định, vận hành thông suốt, triệt tiêu các tác động tiêu cực lên tâm lý thị trường, hạn chế tình trạng đô-la hóa, củng cố niềm tin và lợi tức nắm giữ VND. Nhờ đó, thị trường ngoại tệ ổn định, thanh khoản thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Tính chung giai đoạn 2016 - 2021, tỷ giá trung tâm tăng bình quân khoảng 0,9%/năm, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao.

Trong hơn 10 tháng đầu năm 2022, trong bối cảnh chịu nhiều áp lực theo xu hướng chung trên thế giới, NHNN điều hành tỷ giá linh hoạt, chủ động, vừa tạo dư địa để tỷ giá diễn biến linh hoạt, hấp thụ cú sốc bên ngoài, vừa bán ngoại tệ can thiệp để bổ sung nguồn cung ngoại tệ cho thị trường, hạn chế biến động quá mức của tỷ giá, góp phần ổn định thị trường ngoại tệ, kinh tế vĩ mô và hỗ trợ kiềm chế áp lực lạm phát.

Ngày 17/10/2022, NHNN quyết định điều chỉnh biên độ tỷ giá giao ngay USD/VND từ mức ±3% lên ±5% để chủ động thích ứng trước diễn biến khó lường của thị trường quốc tế. Nhờ đó, tỷ giá giao dịch trên thị trường diễn biến linh hoạt, thanh khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ. Trong bối cảnh đồng tiền của các nước trong khu vực đều mất giá mạnh so với USD, nỗ lực và các giải pháp điều hành linh hoạt, chủ động của NHNN, VND chỉ mất giá khoảng 9% so với USD.

Chủ động truyền thông để ổn định kỳ vọng thị trường

Từ năm 2011 đến nay, công tác truyền thông của NHNN được đổi mới toàn diện cả tư duy lẫn hành động và là công cụ truyền tải hiệu quả các cơ chế, chính sách, giải pháp điều hành tiền tệ, ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước thường xuyên, chủ động cung cấp kịp thời thông tin về các giải pháp điều hành và kết quả hoạt động ngân hàng nhằm dẫn dắt và định hướng dư luận xã hội. Một số giải pháp và kết quả đạt được như sau:

Một là, chủ trương, chính sách và giải pháp điều hành của NHNN đã chuyển tải đến công luận một cách kịp thời và chính thống thông qua nhiều hình thức truyền thông phong phú, đa dạng và dễ tiếp cận (họp báo định kỳ, trang thông tin điện tử NHNN, hội thảo, tọa đàm...), từ đó hạn chế thông tin trái chiều, sai sự thật, thiếu chính xác, gây ảnh hưởng đến tâm lý và dư luận xã hội.

Hai là, kế hoạch và định hướng truyền thông được xây dựng cho cả giai đoạn và từng năm, triển khai thống nhất, đồng bộ trong toàn hệ thống, phối hợp, thống nhất chặt chẽ giữa các đơn vị thuộc NHNN, trong và ngoài ngành; chú trọng cung cấp thông tin kịp thời cho đại biểu Quốc hội, các chuyên gia kinh tế, tài chính.

Ba là, phương thức truyền thông thường xuyên được đổi mới, đa dạng, gần gũi hơn với công chúng. Từ năm 2017, ngoài các hình thức họp báo, cung cấp thông tin định kỳ hoặc đột xuất, khi có yêu cầu, NHNN phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam, các đơn vị thông tấn, báo chí, truyền thông liên quan khác thực hiện các chương trình truyền thông, giáo dục tài chính cộng đồng nhằm nâng cao kiến thức về tiền tệ, tài chính cho các bộ phận dân cư, góp phần triển khai hiệu quả mục tiêu về tài chính toàn diện, thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế... 

Bốn là, thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn về công tác truyền thông cho lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị, chi nhánh; tập huấn nâng cao kiến thức về lĩnh vực ngân hàng cho phóng viên báo chí trong và ngoài ngành.

Năm là, chủ động cung cấp thông tin, truyền thông trước, trong và sau khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm mục tiêu minh bạch hóa thông tin, tạo sự đồng thuận trong dư luận khi tiếp nhận văn bản chính sách mới từ NHNN. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng xử lý kịp thời các sự cố có thể gây tác động tiêu cực đến uy tín, niềm tin người gửi tiền và an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng.

Sáu là, phối hợp với các tổ chức tài chính quốc tế đẩy mạnh công tác truyền thông đối ngoại, nâng cao uy tín, hình ảnh của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế và trong tiến trình hội nhập cộng đồng tài chính, ngân hàng thế giới.

Kinh nghiệm quản lý ngoại hối, hạn chế tình trạng đô-la hóa, vàng hóa

Trong những năm qua, để hạn chế tình trạng đô-la hóa, vàng hóa, Chính phủ và NHNN luôn kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, thực hiện chủ trương từng bước chuyển dần quan hệ huy động - cho vay sang quan hệ mua - bán ngoại tệ, vàng thông qua các giải pháp sau:

Hạn chế tình trạng đô-la hóa

Kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô là cơ sở quan trọng nhất trong việc thúc đẩy niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào giá trị đồng nội tệ, là nền tảng để chống đô-la hóa, vàng hóa. Bên cạnh đó, NHNN kết hợp đồng bộ các giải pháp và công cụ điều hành CSTT, nhất là chính sách lãi suất và tỷ giá để duy trì sức hấp dẫn của VND so với USD; quy định trần lãi suất tiền gửi USD đối với tổ chức và cá nhân (giảm xuống 0%/năm vào cuối năm 2015) và ban hành quy định thu hẹp các nhu cầu vốn cho vay bằng ngoại tệ; tích cực truyền thông, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương để tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ cũng như việc mang ngoại tệ khi xuất cảnh.

Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, niềm tin vào VND được củng cố, tình trạng đô-la hóa giảm mạnh, người dân chuyển đổi ngoại tệ ra VND để gửi hệ thống ngân hàng, từ đó chuyển đổi nguồn lực ngoại tệ thành VND phục vụ sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán đã giảm từ mức 15,84% cuối năm 2011 xuống 10,98% cuối năm 2015 và tiếp tục giảm xuống khoảng 7% hiện nay. Các tổ chức tín dụng chuyển từ xu hướng bán ròng ngoại tệ sang mua ròng ngoại tệ.

Về quản lý thị trường vàng, hạn chế tình trạng vàng hóa

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ về việc quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, NHNN đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP, ngày 3/4/2012 (Nghị định 24) về quản lý hoạt động kinh doanh vàng nhằm 2 mục tiêu chính: 1- Tổ chức, sắp xếp lại một cách căn bản thị trường vàng miếng, ngăn chặn ảnh hưởng của biến động giá vàng đến tỷ giá, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô; 2- Nâng cao vai trò quản lý thị trường vàng của Nhà nước, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế, từng bước huy động nguồn lực vàng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.

Sau khi Nghị định 24 được ban hành, NHNN ban hành các văn bản triển khai, trong đó quy định trạng thái vàng cuối ngày của tổ chức tín dụng không được vượt quá 2% so với vốn tự có của tổ chức tín dụng và không được duy trì trạng thái vàng âm nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá vàng, cũng như bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng. Tiến tới chuyển hóa quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng sang quan hệ mua, bán vàng, NHNN tiếp tục ban hành các quy định yêu cầu tổ chức tín dụng chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng (Thông tư số 11/2011/TT-NHNN) và không được huy động vốn bằng vàng, trừ trường hợp phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng theo yêu cầu của khách hàng khi số vàng thu nợ và tồn quỹ không đủ để chi trả (Thông tư số 12/2012/TT-NHNN).

Đồng thời, NHNN tăng cường thanh tra, xử lý các vấn đề phát sinh nhằm đẩy nhanh quá trình chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng. Các giải pháp đồng bộ này đã giúp loại trừ rủi ro về huy động và cho vay vốn bằng vàng, chấm dứt tình trạng vàng hóa trong hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng, giúp chuyển hóa nguồn lực bằng vàng sang VND để đưa vào sản xuất, kinh doanh, tăng nguồn tiết kiệm thông qua tiền gửi tại các tổ chức tín dụng. ​

Định hướng điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới

Điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm mục tiêu ưu tiên kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững. Theo đó, thời gian tới cần tập trung làm tốt các vấn đề sau:

Một là, điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường và mục tiêu CSTT; khuyến khích tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động để có điều kiện phấn đấu giảm lãi suất cho vay.

Hai là, điều hành tỷ giá linh hoạt, phối hợp đồng bộ các biện pháp và công cụ CSTT nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước khi điều kiện thị trường thuận lợi.

Ba là, điều hành tăng trưởng tín dụng an toàn, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng cho nền kinh tế. Chỉ đạo tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả; tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, kiểm soát tín dụng ngoại tệ phù hợp với lộ trình hạn chế đô-la hóa nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ.

Bốn là, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trong trao đổi thông tin về điều hành kinh tế vĩ mô, hoạt động ngân hàng nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ trong thực thi các chính sách vĩ mô của Chính phủ. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động truyền thông chính sách, minh bạch hóa thông tin về tiền tệ, ngân hàng./.

-------------------------

(1) Dự trữ bắt buộc bằng VND là 3% với tiền gửi dưới 12 tháng và 1% với tiền gửi từ 12 tháng trở lên; tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là 8% với tiền gửi dưới 12 tháng, 6% với tiền gửi từ 12 tháng trở lên và 1% đối với tiền gửi của các tổ chức tín dụng ở nước ngoài.

(2) Lãi suất tái cấp vốn từ 9%/năm lên 15%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 7% lên 13%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 9% lên 16%/năm.

(3) Lãi suất huy động VND ở nhiều ngân hàng lên đến 17%/năm; lãi suất tiền gửi không kỳ hạn VND lên đến 14%/năm, bằng mức trần Ngân hàng Nhà nước quy định khiến lãi suất cho vay tăng theo, có trường hợp lên tới 25%/năm.

Theo tapchicongsan.org.vn