Cơ hội và thách thức của thương mại điện tử đối với lĩnh vực hải quan
Thương mại điện tử đặt ra những thách thức to lớn đối với ngành Hải quan trên thế giới, đồng thời, cũng đem lại những cơ hội to lớn trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ đối với thương mại quốc tế. Trước yêu cầu phát triển của thương mại điện tử, yêu cầu đặt ra với Hải quan Việt Nam là phải đổi mới mạnh mẽ từ hiện đại hóa đến phương thức hoạt động nhằm thay đổi cơ bản tiếp cận áp dụng toàn diện công nghệ thông tin và viễn thông, đảm bảo dịch vụ công được thực hiện trực tuyến hoàn toàn qua đó đem đến sự tiện lợi nhất cho khách hàng.
Thương mại toàn cầu đã được mở rộng và đa dạng hoá nhanh chóng. Mặc dù các phương pháp thương mại truyền thống vẫn còn được sử dụng nhưng thương mại điện tử (TMĐT) đã giúp cho DN và người tiêu dùng nắm bắt được nhiều cơ hội trong việc tiếp cận thông tin hơn và có nhiều lựa chọn hơn trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.
Tác động của TMĐT đối với ngành Hải quan là rất lớn do các nguyên nhân như: Số lượng các lô hàng nhỏ ngày càng tăng, phương thức hoạt động thương mại thay đổi; Phương thức vận chuyển thay đổi; áp lực đối với DN và đối tác của họ trong việc thực hiện kinh doanh điện tử ngày càng tăng; Sự kỳ vọng của DN, người dân và chính phủ đối với cơ quan hải quan ngày càng lớn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) dự báo, thời gian tới sẽ có sự tăng trưởng đáng kể về các kiện hàng nhỏ của tất cả các loại hàng hoá vận chuyển qua biên giới.
Cùng với quá trình này, ngày càng có nhiều hàng hoá được đặt và thanh toán thông qua hệ thống mạng internet. WCO cũng cho rằng, sắp tới hải quan phải đối mặt với việc trao đổi thông tin điện tử qua biên giới vì những thông tin trao đổi này sẽ trở thành đối tượng quản lý của cơ quan hải quan.
Công nghệ và mạng internet cũng tiếp tay cho các hoạt động tội phạm thông qua các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp. Internet giúp tội phạm khó bị phát hiện hành vi vi phạm và hải quan cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý và đối phó với các tội phạm phức tạp liên quan đến không gian mạng.
Cơ hội và thách thức của thương mại điện tử với lĩnh vực hải quan
Cơ hội của thương mại điện tử với lĩnh vực hải quan
Quá trình phát triển TMĐT mang lại những cơ hội lớn cho cơ quan hải quan, gồm:
Một là, nhờ sự phát triển của TMĐT, hải quan và các cơ quan quản lý nhà nước có nhiều nguồn thông tin bổ sung cho cơ sở dữ liệu của mình để quản lý người và hàng hoá qua biên giới.
Ngoài ra, với một cơ sở dữ liệu thương mại đã được xử lý, internet cung cấp cho hải quan nguồn thông tin rất có giá trị trong việc thực hiện chức năng kiểm soát và thực thi pháp luật của mình.
Hai là, hệ thống xử lý tự động hiện đại đã giúp cho cơ quan hải quan hoạt động minh bạch, hiệu quả, đánh giá rủi ro tốt hơn và tăng cường chống tham nhũng. Quá trình này còn đem đến cho hải quan có cơ hội phối hợp tốt với các cơ quan của chính phủ và giữa các cơ quan hải quan các nước với nhau.
Ba là, vai trò truyền thống của hải quan trong việc thực hiện chức năng của mình tại biên giới có thể thay đổi. Do TMĐT ngày càng phát triển, thông qua mối quan hệ hợp tác với các cơ quan hải quan nước khác, cơ quan hải quan của một nước có thể thực hiện thủ tục hải quan trước khi hàng hoá và người đến biên giới.
Mỗi bên liên quan trong dây chuyền thương mại có thể gửi thông tin tới hải quan sớm hơn. Điều này cho phép cơ quan Hải quan thực hiện nhiệm vụ và ra quyết định thông quan nhanh hơn.
Bốn là, mặc dù TMĐT và internet làm gia tăng khoảng cách về kỹ thuật số giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển nhưng do chi phí đầu tư ban đầu tương đối thấp và dễ dàng tiếp cận với thông tin toàn cầu nên internet có thể được coi như một công cụ tương đối bình đẳng giữa các nước có mức độ phát triển khác nhau.
Thách thức của thương mại điện tử đối với lĩnh vực hải quan
Bên cạnh việc tận dụng những cơ hội do TMĐT mang lại, cơ quan hải quan phải đối phó với những khó khăn, thách thức sau:
Một là, phải tận dụng được cơ hội do công nghệ thông tin, viễn thông nói chung và TMĐT nói riêng mang lại, bao gồm cả việc đào tạo và xây dựng năng lực.
Hải quan phải khắc phục được sự phát triển có tính biệt lập về hệ thống điện tử tự động của mình và cần tính đến thông lệ quốc tế, đặc biệt là hệ thống có nhiều chức năng trong việc xử lý các giao dịch thương mại trên toàn thế giới.
Hai là, năng động hơn và có tầm nhìn trong việc phát triển các phương pháp điện tử để kiểm soát và tạo thuận lợi thương mại, đặc biệt là sử dụng công nghệ thông tin, bao gồm cả hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử.
Hoạt động trong một môi trường mở và mang tính toàn cầu, đòi hỏi hải quan phải đáp ứng các yêu cầu: Các quy trình thủ tục hải quan phải hài hoà hoá dựa trên Công ước Kyoto sửa đổi, cũng như đưa ra các quy định về giao dịch điện tử (như chữ ký điện tử và văn bản điện tử); Các yêu cầu về chuẩn hoá cơ sở dữ liệu đối với hàng xuất khẩu và nhập khẩu, được xác định trong mô hình cơ sở dữ liệu hải quan của WCO; Hải quan cần có một chiến lược an ninh về công nghệ thông tin một cách toàn diện để giải quyết việc chứng nhận kỹ thuật số qua biên giới.
Ba là, phải sử dụng công nghệ và chuẩn mực có tính mở như Internet nhằm cải thiện quản lý công nghệ thông tin thông qua việc sử dụng tốt hơn các thông tin thương mại sẵn có đối với việc thu thuế, quản lý rủi ro và kiểm toán.
Internet bên cạnh việc cho phép các công ty lưu trữ thông tin tại một trung tâm toàn cầu còn cho phép hải quan tiếp cận các thông tin liên quan một cách nhanh chóng mà không cần biết các thông tin đó thực tế đang được lưu giữ ở đâu.
Do đó, hải quan phải duy trì khả năng đảm bảo tiếp cận được các thông tin tin cậy và có tính xác thực nhằm xác định được những người có trách nhiệm và có được thông tin cần thiết để thực hiện chức năng quản lý của mình.
Bốn là, cơ quan Hải quan phải tham gia vào các thoả thuận hợp tác song phương và đa phương để phục vụ cho quản lý quản lý rủi ro và kiểm tra sau thông quan nhằm thực hiện thủ tục hải quan nhanh chóng, đơn giản và thống nhất đối với toàn bộ giao dịch quốc tế của các doanh nghiệp làm ăn hợp pháp.
Việc này đòi hỏi cơ quan hải quan áp dụng Số tham chiếu hàng hoá đơn nhất của WCO (UCR), chia sẻ thông tin tình báo để quản lý rủi ro và công nhận kết quả kiểm tra của nhau.
Trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ xã hội, thu thuế và tạo thuận lợi cho thương mại hợp pháp, Hải quan cũng phải tập trung vào các DN lớn và tham gia nhiều hơn nữa vào quá trình hoạt động thương mại và tiếp cận thông tin.
Năm là, phải cung cấp dịch vụ trực tuyến toàn diện. Hoạt động này cũng giúp cho hải quan góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy mức độ tuân thủ chung. Việc tiếp cận với các luật lệ và quy định liên quan và chỉ dẫn trực tuyến về vấn đề hải quan cũng như những kiến thức trao đổi trên website hải quan sẽ hỗ trợ cho DN tuân thủ các quy định của hải quan.
Sáu là, đòi hỏi từ phía các DN đối với ngành Hải quan trong việc giảm thời gian thông quan ngày càng lớn do sự tăng trưởng của vận tải hàng không và đặc biệt sự gia tăng các kiện hàng do thực hiện TMĐT.
Bảy là, việc gia tăng hàng hóa có giá trị nhỏ cũng ảnh hưởng tới số thu của hải quan. Nếu như trước đây, các DN trung gian nhập khẩu hàng hoá có số lượng lớn, thì ngày nay, TMĐT cho phép người mua có thể đặt hàng trực tiếp tới nhà sản xuất, việc đó dẫn đến nguy cơ sẽ có những lô hàng có giá trị dưới mức giá trị tối thiểu theo quy định.
Điều này có thể gây ảnh hưởng bất lợi đến việc bán các hàng hoá giống hệt trong nước, vì bị thu thuế tiêu thụ, trong khi đó, hàng hoá có trị giá tối thiểu không bị thu loại thuế này.
Tám là, cần cân nhắc thảo luận các vấn đề cơ chế, chính sách trong các tổ chức như Tổ chức Thương mại thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Tại Hội nghị Bộ trưởng Doha 2001, trong Tuyên bố về TMĐT, các Bộ trưởng của WTO tuyên bố rằng, các nước thành viên sẽ tiếp tục áp dụng các thông lệ hiện hành, trong đó không áp dụng thuế hải quan đối với việc truyền dữ liệu điện tử.
OECD kết luận rằng, do nguyên tắc trung lập, thuế tiêu dùng – trong đó có thuế giá trị gia tăng hoặc thuế hàng hoá và dịch vụ sẽ được áp dụng đối với việc truyền các sản phẩm kỹ thuật số có giá trị thực tế tương đương (ví dụ: sách, phần mềm hoặc âm nhạc...).
Chín là, do tính chất toàn cầu và phi biên giới của TMĐT, Hải quan sẽ không có khả năng thực hiện vai trò của người gác cửa truyền thống. Trong thời gian tới, Hải quan sẽ phải dựa vào khả năng tự đánh giá của chính mình và thực hiện kiểm tra trên cơ sở kiểm toán.
Mười là, cần cảnh giác cao hơn với các loại tội phạm do TMĐT mang lại và các biện pháp để đối phó với các loại tội phạm này. Việc phát triển công nghệ mới đòi hỏi phải xây dựng hệ thống pháp luật để đối phó với các hành vi vi phạm ngày càng tăng; đồng thời, đáp ứng các thoả thuận hỗ trợ lẫn nhau để xử lý giao dịch TMĐT và cải thiện nội dung đào tạo nhằm kiểm soát các loại tội phạm liên quan đến máy tính và nhân viên thực thi pháp luật.
Một số giải pháp
Để đáp ứng các yêu cầu của TMĐT, thời gian tới, cơ quan Hải quan cần triển khai thực hiện các giải pháp sau:
- Đơn giản hoá các quy trình và thủ tục hải quan, đồng thời đảm bảo mức độ tuân thủ và an ninh cao. Việc làm này sẽ giúp giảm gánh nặng đối với DN và giúp cho chi phí tuân thủ thấp hơn.
- Phát triển các giao dịch thương mại quốc tế phi biên giới, chuẩn hoá thủ tục hải quan và các luồng cơ sở dữ liệu, nhằm đảm bảo rằng các cơ sở dữ liệu này được sử dụng thành công đối với tất cả các nước thành viên của WCO và cơ sở dữ liệu này được xây dựng theo mô hình cơ sở dữ liệu hải quan của WCO và Công ước Kyoto sửa đổi.
- Cần đảm bảo rằng, việc thực hiện TMĐT phải tạo điều kiện cho Hải quan trong việc xác định và quản lý rủi ro với mức độ nhanh hơn, cải thiện việc tập trung nguồn lực vào những lĩnh vực có tính rủi ro cao nhất.
- Cần đặt sự tín nhiệm vào việc sử dụng các dữ liệu thương mại nhằm hoàn thành các yêu cầu của Hải quan.
- Khai thác các tiềm năng trao đổi thông tin tình báo giữa các cơ quan Hải quan và đặc biệt là xây dựng khái niệm UCR đối với quá trình kiểm toán các giao dịch thương mại quốc tế trọn gói.
- Phát triển cơ chế làm việc chung giữa ngành Hải quan và các cơ quan khác của chính phủ tham gia vào việc quản lý thương mại quốc tế, nhằm thúc đẩy việc trao đổi phi tuyến cơ sở dữ liệu thương mại quốc tế và trao đổi thông tin tình báo rủi ro ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế.
- Cần đảm bảo tất cả các quy định về thương mại quốc tế liên quan được cập nhật, văn bản và chữ ký điện tử có đầy đủ cơ sở pháp lý.
- Cán bộ Hải quan cần được đào tạo để trang bị các kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ trong một môi trường điện tử hoàn toàn tự động.
Tài liệu tham khảo:
1. Những cơ hội và thách thức của thương mại điện tử đối với Hải quan (phần 1) https://customs.gov.vn/Lists/TinHoatDong/ViewDetails.aspx? ID=17299&Category=Tin;
2. Những cơ hội và thách thức của thương mại điện tử đối với Hải quan (phần 2), https://customs.gov.vn/Lists/TinHoatDong/ViewDetails.aspx? ID=17306&Category=Tin;
3. Nhiều khó khăn trong quản lý lĩnh vực thương mại điện tử https://www.baohaiquan.vn/Pages/Nhieu-kho-khan-trong-quan-ly-linh-vuc-thuong-mai-dien-tu.aspx;
4. Khó khăn trong quản lý thương mại điện tử, http://www.vccinews.vn/news/11156/kho-khan-trong-quan-ly-thuong-mai-dien-tu.html.