Hoàn thiện chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Thực hiện Kế hoạch của Ủy ban Thường vụ Quốc hội triển khai Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV; đồng thời, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đang tổng hợp, xây dựng báo cáo rà soát các luật thuế để đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách thuế. Trong đó, nghiên cứu mức thuế sử dụng đất (SDĐ) phi nông nghiệp đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và thông lệ quốc tế.
Trả lời kiến nghị của cử tri về việc xem xét lại chủ trương tăng thuế quyển SDĐ phi nông nghiệp và thời điểm hợp lý để thực hiện nhằm giúp người dân khôi phục lại sản xuất, ổn định cuộc sống, Bộ Tài chính cho biết, theo quy định của Luật Thuế SDĐ phi nông nghiệp hiện hành, đối tượng chịu thuế SDĐ phi nông nghiệp bao gồm đất ở (đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị); đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; đất phi nông nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh.
Đồng thời, mức thuế suất thuế SDĐ phi nông nghiệp đối với đất ở phần diện tích trong hạn mức là 0,03%, áp dụng mức thuế 0,07% đối với phần diện tích vượt không quá 3 lần hạn mức, 0,15% đối với phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức. Đối với đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, đất phi nông nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh áp dụng thuế suất là 0,03%.
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, mức thuế SDĐ phi nông nghiệp hiện hành ở Việt Nam là tương đối thấp so với các nước trên thế giới, với nguồn thu trong phạm vi cả nước chỉ khoảng 1.700 tỷ đồng/năm, chiếm 0,03% GDP.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, số thu thuế sử dụng đất của các nước phát triển chiếm khoảng 2-4% GDP, còn số thu thuế sử dụng đất của các nước đang phát triển chiếm khoảng 1% GDP.
Tại Việt Nam, mức thuế này còn thấp dẫn đến mục tiêu của thuế SDĐ phi nông nghiệp chưa đạt được, nhất là mục tiêu góp phần điều tiết cao đối với người có quyền sử dụng thừa đất hoặc có quyền sử dụng với nhiều thửa đất, thúc đẩy tổ chức, cá nhân trong xã hội sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả.
Luật thuế SDĐ phi nông nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng quy định các trường hợp miễn và giảm 50% số thuế phải nộp, trong đó có đất trong hạn mức của hộ nghèo, đất trong hạn mức tại địa bàn điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Luật số 106/2016/QH13 ngày 6/4/2019 của Quốc hội cũng quy định rõ, đối với hộ gia đình, cá nhân có số thuế phải nộp hàng năm từ 50 nghìn đồng trở xuống được miễn thuế SDĐ phi nông nghiệp.
Bộ Tài chính cũng cho biết, thực hiện Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 ngày 05/11/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị về Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và thực hiện Quyết định số 2114/QĐ-TTg ngày 16/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, Bộ Tài chính đang tổng hợp, xây dựng báo cáo rà soát các luật thuế để đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách thuế.
Trong đó, Bộ Tài chính cũng nghiên cứu mức thuế SDĐ phi nông nghiệp đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và thông lệ quốc tế, cũng như đảm bảo tính thống nhất của hệ thống chính sách thuế liên quan đến bất động sản và đặt trong tổng thể cải cách hệ thống chính sách thuế giai đoạn 2021-2030.