Phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên hiện nay


Nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có vai trò quyết định đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Do đó, trong nỗ lực thực hiện ba đột phá chiến lược theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên đặc biệt chú trọng vào các giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học, công nghệ.

Nghiên cứu khoa học tại Trung tâm Công nghệ sinh học Đà Nẵng. Nguồn: dbc.danang.gov.vn
Nghiên cứu khoa học tại Trung tâm Công nghệ sinh học Đà Nẵng. Nguồn: dbc.danang.gov.vn

Nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo(1) là nguồn nhân lực có trí tuệ, tay nghề, năng lực tốt, được đào tạo cơ bản, chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn đất nước, của thị trường lao động hiện nay. Phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nói riêng là yếu tố quan trọng, nòng cốt bảo đảm cho nền kinh tế phát triển, hội nhập sâu rộng, bền vững, ổn định trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức.

Nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có vai trò hết sức to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại nói riêng: 1- Là lực lượng chủ yếu trong việc xây dựng hệ thống cơ sở khoa học - thực tiễn giúp Đảng và Nhà nước xác định đường lối chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển đất nước; đồng thời là lực lượng nòng cốt trong triển khai thực hiện các đường lối, chính sách đó; 2- Đảm nhiệm việc nghiên cứu, khảo nghiệm và ứng dụng các quy trình công nghệ mới, các thiết bị, công cụ mới vào sản xuất; cải tiến và hệ thống hóa công nghệ truyền thống, nâng cao trình độ công nghệ; 3- Là lực lượng đi đầu trong việc lựa chọn, tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ công nghệ mới của thế giới vào phát triển các ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam; 4- Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học, kiến thức và công nghệ sản xuất tiên tiến, thực hiện việc dẫn dắt cho những bộ phận có năng lực và trình độ thấp hơn đi lên, qua đó góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về khoa học - công nghệ và kỹ thuật sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất của công nhân và các tầng lớp nhân dân.

Các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên xác định, việc phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Thực hiện quy hoạch phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2020, các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên chú trọng phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, so với yêu cầu, thì nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên còn thiếu hụt nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.

Tính đến năm 2019, lực lượng lao động của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên khoảng 15,3 triệu người (Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ: 11,8 triệu người; Tây Nguyên: 3,5 triệu người), trong đó, tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên chỉ chiếm 7,5% (miền Trung: 8,9 %, Tây Nguyên: 6,1%)(2).

Như vậy, số lượng nguồn nhân lực có trình độ chiếm tỷ lệ còn ít. Chất lượng, năng suất lao động của nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở nhiều tỉnh, thành phố miền Trung và Tây Nguyên còn thấp. Hầu hết các tỉnh đều đối mặt với sự thiếu hụt cán bộ trình độ cao để chủ trì các công trình nghiên cứu tầm vùng, quốc gia nhằm giải quyết các vấn đề lớn của địa phương; thiếu đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có trình độ chuyên môn sâu, đặc biệt là ở các ngành mũi nhọn, có tính chất quyết định, như công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…

Bên cạnh đó, việc phân bổ đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên không đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, như Đà Nẵng, Nha Trang, Huế, Vinh....; các khu vực vùng sâu, xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên chưa tận tâm với nghiên cứu, thiếu tính chủ động, sáng tạo vươn lên khẳng định mình, hiện có khoảng 50% số nhà khoa học chưa từng có bài nghiên cứu cho các tạp chí, hội thảo, đề tài khoa học...

Nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo làm việc trong doanh nghiệp chiếm tỷ trọng thấp. Việc thiếu những công nhân kỹ thuật có tay nghề cao đang làm hạn chế năng lực tiếp thu, làm chủ công nghệ của các doanh nghiệp trên địa bàn. Do vậy, hầu hết doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vừa và siêu nhỏ, năng lực cạnh tranh thấp, ít khả năng vươn tầm quốc tế; chủ yếu mới tham gia vào một số công đoạn của mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, chưa có nhiều sản phẩm chủ lực mang thương hiệu tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Năm 2019, riêng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có gần 60.000 doanh nghiệp đang hoạt động, nhưng do thiếu hụt nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nên năng suất lao động khá thấp, dưới mức bình quân chung của cả nước(3).

Hầu hết các tỉnh miền Trung đều có lợi thế về phát triển kinh tế biển, nhất là nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy hải sản. Tuy nhiên, do thiếu nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nên ngành kinh tế biển của các tỉnh miền Trung phát triển thiếu chiều sâu và chưa đem lại giá trị gia tăng cao so với tiềm năng và lợi thế, điển hình như việc chưa phát triển được nghiên cứu, lai tạo con giống mới phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu thường xuyên thay đổi do biến đổi khí hậu; thiếu sáng chế, vận hành các phương tiện hiện đại đánh bắt thủy hải sản; nghiên cứu, chế biến sâu các đặc sản thành những sản phẩm có giá trị cao, mang thương hiệu toàn cầu còn hạn chế…

Các ngành thế mạnh khác của miền Trung, như phát triển vận tải biển, khai thác cảng công nghiệp, chế biến dầu khí, đóng và sửa chữa tàu biển, thông tin liên lạc biển (đài phát tín hiệu ven biển, hệ thống định vị), nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển, bảo vệ môi trường, sinh thái biển… đều rất thiếu nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong khi đó, các tỉnh Tây Nguyên có lợi thế lớn về phát triển cây công nghiệp, phát triển nông nghiệp xanh, sạch, sinh thái..., nhưng lại thiếu các chuyên gia đầu ngành trong việc lai tạo giống mới phù hợp, năng suất, hiệu quả cao, ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, chăm sóc, chế biến sản phẩm nông, lâm nghiệp…

Theo dự báo, trong những năm tới, các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên sẽ có sự bùng nổ của ngành dịch vụ logistics. Do vậy, các doanh nghiệp sản xuất, thương mại, dịch vụ cần hàng nghìn nhân sự có chuyên môn cao về khoa học - công nghệ logistics, đặc biệt là các ngành gắn với phát triển kinh tế biển. Trong khi đó, hiện nay, nguồn cung cấp lao động cho ngành dịch vụ logistics chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu thực tế. Bên cạnh đó, lao động trong ngành này còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh, ít được cập nhật tri thức mới, phong cách lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được nhu cầu, trình độ công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), ngoại ngữ, nghiệp vụ còn hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển công nghệ logistics thế giới...

Trước thực trạng trên, để phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, trong thời gian tới, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển của các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên.

Mặc dù tầm quan trọng của nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được khẳng định, tuy nhiên, việc thu hút và phát triển nguồn nhân lực này ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên còn khá khó khăn. Ngoài các yếu tố khách quan, còn có nguyên nhân bởi một số cấp ủy, chính quyền vẫn chưa thực sự quan tâm thích đáng và tìm kiếm các giải pháp hiệu quả để thu hút, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó, cần tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội về tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thứ hai, cần chú trọng hơn công tác thống kê, dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Hiện nay, việc thiếu hụt nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có một phần nguyên nhân do chất lượng công tác dự báo của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên về nhu cầu nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo còn hạn chế. Do đó, để có chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo hợp lý, cần dự báo đúng, trúng nhu cầu thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao ở cả khu vực và của từng tỉnh, thành phố, gắn với lợi thế, tiềm năng phát triển của từng địa phương. Công tác thống kê, dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phải dựa trên những tính toán khoa học, thông qua các phương pháp phân tích, đánh giá tin cậy, chỉ ra nhu cầu nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của từng ngành, lĩnh vực, với số lượng cụ thể, yêu cầu bằng cấp, trình độ… tương ứng, để từ đó đưa ra những dự báo chính xác, làm cơ sở định hướng cho hoạt động thu hút, đào tạo, sử dụng, phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Trong thời gian qua, các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên đã xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực chung gắn liền với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhưng chưa có chiến lược riêng đối với phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Do vậy, xuất phát từ dự báo nhu cầu, từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cụ thể. Chiến lược xác định rõ mục tiêu, quy mô, lộ trình và những cơ chế, chính sách tổng thể. Trong đó, mục tiêu chiến lược phải xác định quy mô, số lượng và cơ cấu của từng loại nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cho phù hợp. Chiến lược cũng xây dựng lộ trình thực hiện một cách hợp lý, có tính dự báo cao, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo một cách toàn diện và đồng bộ. Xây dựng chiến lược phải dựa trên nhu cầu cụ thể, tránh tình trạng các bộ, ngành, địa phương tuy có quy hoạch song tính liên thông, kết nối, phối hợp chưa hiệu quả, chưa sát với thực tiễn; việc quy hoạch còn mang tính hình thức nên công tác phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vẫn mang tính tự phát. Do đó, mỗi bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, nhu cầu xã hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Thứ tư, cần đẩy mạnh và đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Khi đào tạo nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cần xác định ngành, nghề hoặc nhóm ngành, nghề có lợi thế của các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên cũng như thị trường hiện tại và tương lai có nhu cầu, như: nuôi trồng, chế biến thủy hải sản, nông nghiệp xanh, sinh thái, quản lý tổng hợp vùng bờ, quản lý rủi ro, khai thác vật liệu hóa phẩm trong nước biển, công nghệ hóa lý trong khai thác nước ngọt từ biển, công nghệ khai thác năng lượng biển (sóng biển, thủy triều, thủy nhiệt)… Đây là những lĩnh vực cần cho một nền kinh tế biển hiện đại. Gia tăng quy mô đào tạo nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo từ các trường đại học, viện nghiên cứu trên địa bàn. Các trường, viện đào tạo ngành này cần tiếp cận với chuẩn quốc tế nhằm mở rộng quy mô đào tạo. Có chính sách huy động và quản lý sử dụng hiệu quả các nguồn vốn từ ngân sách, viện trợ, vốn vay của các tổ chức trong và ngoài nước cùng các hình thức đầu tư phù hợp. Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế, Vinh, Tây Nguyên... tạo điều kiện tối đa để đẩy nhanh công tác đào tạo nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cho các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.

Đổi mới đồng bộ về chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra; về vấn đề xây dựng đội ngũ giảng viên; thống nhất về nội dung chương trình, quy trình đào tạo và cách thức đánh giá chất lượng đào tạo, tính đến khung tiêu chuẩn chung của thế giới, để đào tạo ở Việt Nam nhưng nguồn nhân lực có thể làm việc được ở các quốc gia khác. Tích cực mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế bằng nhiều cách thức và con đường khác nhau. Chú trọng hình thức hợp tác đào tạo giữa nhà trường với các doanh nghiệp nước ngoài đang đầu tư ở Việt Nam; tăng cường gửi sinh viên đi đào tạo, nghiên cứu, làm việc ở nước ngoài, nhất là ở những lĩnh vực mà Việt Nam còn đang yếu, các lĩnh vực công nghệ cao và mới. 

Thứ năm, đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Hiện nay, tổ chức bộ máy và nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vẫn do các cơ quan chủ quản của tổ chức khoa học - công nghệ quản l‎ý, mang tính hành chính, nên hạn chế tính linh hoạt trong sử dụng nguồn lực, nhất là cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Cách thức quản lý hành chính như với các nguồn nhân lực khác bộc lộ sự chưa phù hợp. Do vậy, cần nghiên cứu cách tổ chức, quản lý đặc thù đối với các tổ chức khoa học - công nghệ để phù hợp hơn với nhân lực chất lượng cao, trong đó chú trọng tạo môi trường, điều kiện làm việc phát huy được năng lực, sở trường của người lao động, đổi mới chính sách lương, thưởng đối với cán bộ hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, mở rộng điều kiện tăng thu nhập tương xứng với những đóng góp cho xã hội, đồng thời có các chính sách ưu đãi, động viên kịp thời cả về vật chất lẫn tinh thần cho các nhà khoa học...

Nhà nước, chính quyền địa phương cần tăng cường đầu tư và đổi mới trang thiết bị nghiên cứu khoa học hiện đại cho các phòng nghiên cứu, thí nghiệm tại các trung tâm khoa học, các trường đại học, viện nghiên cứu; đồng thời, phát triển hệ thống thông tin, số hóa và tạo lập các kho dữ liệu khoa học có thể tiếp cận, khai thác và sử dụng chung. Tạo điều kiện cho các nhà khoa học đi đào tạo, bồi dưỡng, học tập trao đổi, hợp tác nghiên cứu khoa học ở những nước có trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại.

Thứ sáu, tăng cường thu hút nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, các chuyên gia hàng đầu từ bên ngoài.

Cùng với thu hút, trọng dụng nhân tài trong nước, cần xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để thu hút nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, các chuyên gia hàng đầu quốc tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tạo những điều kiện thuận lợi về cơ chế, cơ sở vật chất để thu hút các nhà khoa học trên thế giới, các tổ chức nghiên cứu khoa học đến liên kết, hợp tác trong nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân tài, chuyển giao công nghệ. Xây dựng chính sách thông thoáng và hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của các chuyên gia; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài về thăm quê hương, kinh doanh, sản xuất, nghiên cứu khoa học…

Với sự quan tâm và chiến lược phát triển phù hợp, các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên sẽ từng bước khắc phục tình trạng thiếu hụt lớn nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo như hiện nay, góp phần thực hiện thắng lợi đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, cũng như thực hiện thành công Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 3/11/2022, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 6/10/2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, đưa các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên phát triển nhanh và bền vững./.

-------------------

(1)  Bộ Khoa học và Công nghệ vận dụng khái niệm nêu trong Luật Khoa học và Công nghệ đã xác định nguồn nhân lực khoa học và công nghệ nước ta gồm 5 thành phần chủ yếu sau: Cán bộ nghiên cứu; cán bộ kỹ thuật, công nghệ; các cá nhân thuộc mọi tầng lớp xã hội; cán bộ quản lý các cấp; trí thức Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài.

(2)  Xem Tổng cục Thống kê: Báo cáo Điều tra lao động, việc làm năm 2019.

(3) Xem Cẩm Tú: “Định hướng phát triển nguồn nhân lực tại vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (tổng hợp từ Tọa đàm Liên kết phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong bối cảnh mới), Trang thông tin điện tử Ban Kinh tế Trung ương, ngày 21/7/2022, https://kinhtetrunguong.vn/kinh-te/dinh-huong-phat-trien-nguon-nhan-luc-tai-vung-kinh-te-trong-diem-mien-trung.htm.

Theo tapchicongsan.org.vn