Hiệu quả quản lý tài chính tại các trường đại học công lập theo hướng tự chủ


Công tác quản lý tài chính trong các cơ sở giáo dục đại học công lập bao gồm quản lý nguồn kinh phí và quản lý các khoản chi. Trong quản lý tài chính cần áp dụng các chức năng quản lý bao gồm: lập kế hoạch, tổ chức và giám sát theo hướng phù hợp với mục tiêu, tầm nhìn và sứ mệnh của trường đại học. Với ý nghĩa quan trọng của quản lý tài chính, bài viết đề xuất một số giải pháp về quản lý tài chính hiệu quả tại các trường đại học công lập ở Việt Nam theo hướng tự chủ.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Đặt vấn đề

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, giáo dục đại học trên thế giới đã và đang có nhiều chuyển biến tích cực. Với nguồn lực từ ngân sách nhà còn đang hạn hẹp so với nhu cầu giáo dục đại học của xã hội, vấn đề chia sẻ chi phí giáo dục đại học (GDĐH) đang được các nhà quản lý chính sách, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, nhằm thu hút và khai thác hiệu quả hơn nữa nguồn lực tài chính trong xã hội cho GDĐH.

Tự chủ tài chính là một trong những khía cạnh của tự chủ đại học. Khi bàn về tài chính ở trường đại học, chúng ta đề cập đến: nguồn thu của tổ chức, chi phí hoạt động cho trường đại học, kế hoạch chiến lược và phân bổ nguồn lực, và quản lý tài chính của tổ chức (Yeager và cộng sự, 2001).

Đồng quan điểm, các nghiên cứu của nhiều học giả như Jongbloed và cộng sự (2000), Rothblatt (2002) và Ordorica (2003) đều cho rằng: Vấn đề tự chủ tài chính ở trường đại học thể hiện ở nhiều phương diện (khả năng độc lập trong việc ra quyết định vay tiền trong thị trường tài chính, quyết định cách thức tạo ra nguồn thu thông qua học phí, các hoạt động giảng dạy và hợp đồng nghiên cứu cùng với các hoạt động khác tạo ra nguồn thu, có quyền tự do phân bổ nguồn lực tài chính, chính sách lương thưởng và được giữ lại lợi nhuận nếu có).

Linh hoạt tài chính được coi là 1 phần của tự chủ, được đo lường thông qua: cấu trúc ngân sách của đơn vị, quyền tự do thay đổi cơ cấu nguồn thu, quyền được giữ lại và kiểm soát các khoản thu nhập khác, tự quyết vấn đề chi tiêu, có cơ chế phân phối thặng dư riêng, tự quyết vấn đề tiền lương và mua sắm trang thiết bị tại đơn vị (Kohtamäki, 2009).

Hiện nay, tự chủ đại học đang là xu hướng mang tính toàn cầu trong quản trị GDĐH, là xu thế tất yếu của các quốc gia trong quản trị đại học, đó là xu hướng cắt giảm sự can thiệp của nhà nước trong quản lý nhà trường, tăng cường giao quyền tự chủ cho các trường.

Mặc dù, việc thí điểm cho phép tự chủ một số trường đại học đã giúp các cơ sở đào tạo nhân lực bắt đầu có nhiều thay đổi tích cực, tuy nhiên vấn đề quản lý tài chính tại các trường đại học còn chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng.

Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng quản lý tài chính của các cơ sở GDĐH cần tiếp tục nghiên cứu tỉnh hình thực tiễn, để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài chính tại các cơ sở GDĐH trong thời gian tới.

Một số mô hình quản lý tài chính tại các trường đại học công lập theo hướng tự chủ trên thế giới

Về huy động nguồn lực tài chính

Theo Mulholland (2017), tài liệu học thuật về các mô hình kinh doanh của trường đại học (tức là một kế hoạch về cách mà trường sẽ tạo ra doanh thu và lợi nhuận) hiện nay rất hiếm vì những thông tin này ít khi được tiết lộ bởi các học giả tránh coi GDĐH như là một lĩnh vực kinh doanh.

De Dominicis và cộng sự (2011) đã thực hiện điều tra cấu trúc ngân sách dựa trên một mẫu 33 trường đại học thuộc lĩnh vực nghiên cứu ở châu Âu, kết quả nghiên cứu cho thấy, chính phủ vẫn là nguồn tài trợ chính (chiếm 70% tổng kinh phí) và tự chủ tài chính có tác động tích cực đến mức độ đa dạng hóa ngân sách, nhưng chỉ xảy ra đối với những trường đại học hoàn toàn tự chủ.

Các phát hiện chính và kết luận liên quan đến chính sách của nhóm nghiên cứu cũng cho thấy, về nguyên tắc, một trường đại học càng tự chủ hơn, thì nó phải có khả năng cạnh tranh tốt hơn trong việc thu được vốn từ các nguồn khác nhau. Các trường tự chủ phải có chiến lược thu hút người học một cách hiệu quả, mở rộng địa bàn tuyển sinh, tìm cách giảm tỷ lệ sinh viên bỏ học và thực hiện thành công các dự án để đảm bảo nguồn thu (Kohtamäki, 2009).

Ở một số quốc gia như Hungary, Ireland, Ý, Hà Lan, Latvia, Ba Lan, Slovakia, cũng như Vương quốc Anh, học phí chiếm khoảng 10% thu nhập trung bình của các trường đại học, vì vậy đó là nguồn thu nhập quan trọng nhất sau nguồn tài trợ công (Pruvot và cộng sự, 2015).

Nghiên cứu của Mulholland ( 2017) tại các trường đại học ở châu Âu cũng cho thấy, sự phụ thuộc vào nguồn thu từ chính phủ giảm đáng kế, thay thế vào đó là nguồn thu chủ yếu đến từ hoạt thương mại của các trường.

Các trường này tăng cường nguồn thu được tạo ra từ các hợp đồng nghiên cứu và cung cấp dịch vụ (Chẳng hạn như: Cho thuê cơ sở vật chất, dịch vụ ăn uống, tư vấn...), tài trợ từ thiện và khi có thể, tài trợ của châu Âu (Pruvot và cộng sự, 2015).

Aebischer và Escher (2016) tập trung thảo luận về tất cả nguồn tài trợ có thể huy động để phát triển tại các trường đại học ở châu Âu, gồm: (1) Nguồn tài trợ cốt lõi từ chính phủ và nguồn tài trợ cạnh tranh (thông qua các Hội đồng nghiên cứu và Cơ sở khoa học quốc gia) hiện tại đang ở mức khoảng 70%, nhưng trong tương lai có xu hướng giảm xuống dưới ngưỡng 50% vào năm 2030, kéo theo đó là những tác động đến vấn đề quản trị và tự chủ đại học;

 (2) Tìm kiếm nguồn thu nhập mới (bao gồm tăng học phí, tăng quỹ tư nhân và huy động tài trợ tích cực hơn); (3) Hoạt động quyên góp, thiện nguyện; (4) Thu hút và xây dựng quan hệ hợp tác bền vững với các doanh nghiệp, đối tác kinh doanh trong ngành vào hoạt động nghiên cứu và phát triển (Chẳng hạn như: Hợp tác tài trợ cho các chương trình nghiên cứu, khai thác tốt hơn các ý tưởng, quản lý chuyên nghiệp về sở hữu trí tuệ và đầu tư vào các công ty “sản xuất kinh doanh” và “khởi nghiệp” (David & Metcalfe, 2007));

(5) Chuyển giao công nghệ và doanh thu từ các bằng sáng chế; (6) Nguồn thu nhập khác liên quan đến dịch vụ; (7) Tài trợ của công chúng quốc tế, nguồn thu nhập này trung bình chiếm chỉ khoảng 2% tổng doanh thu của các trường đại học ở châu Âu; (8) Mở rộng đào tạo đại học từ xa; (9) Mở rộng hoạt động quốc tế, và thu nhập từ sinh viên quốc tế.

Về kiểm soát chi phí

Mỗi trường đại học có cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động khác nhau, bị ràng buộc bởi những quy định và ban hành những quy chế riêng, do đó việc thực hiện tự chủ sẽ không giống nhau giữa các trường.

Nhiều quốc gia phát triển trên thế giới đã tìm cách giảm chi tiêu cho GDĐH công trên mỗi đơn vị đầu ra (trong cả giảng dạy và nghiên cứu) bằng cách khuyến khích các trường làm việc hiệu quả hơn và tăng “giá trị đồng tiền”.

Các biện pháp khác bao gồm tái cấu trúc hệ thống GDĐH thông qua việc sáp nhập hoặc tạo ra các loại hình tổ chức mới, quy chế mới thông qua giao quyền tự chủ cho các trường. Hoạch định ngân sách đơn vị phải gắn kết chặt chẽ với mục tiêu hoạt động và các chỉ số đánh giá.

Phần quan trọng của thiết kế ngân sách đó là phải lượng hóa mục tiêu tuyển sinh viên, cụ thể số lượng sinh viên đào tạo  chuyên ngành, số lượng học viên các khóa ngắn hạn, tổng số đối tượng người học và mục tiêu giảm thiểu chi phí trên một sinh viên và tính toán lợi nhuận trên mỗi sinh viên.

Các trường phải tính toán làm sao giảm chi tiêu cho mỗi sinh viên nhưng đồng thời tăng cường việc học của sinh viên. Bên cạnh đó, số lượng và cơ cấu nhân viên được xem là nhân tố chính ảnh hưởng đến hoạt động và chi phí của trường (Kohtamäki, 2009). Các trường cần có hệ thống quản lý tài chính chặt chẽ và nuôi dưỡng văn hóa của tổ chức để nhằm thiết lập một hệ thống với chi phí hiệu quả nhất có thể.

Các trường tự thiết lập mô hình ngân sách cho riêng mình, trong đó nên dựa trên cơ sở chức năng và chi phí của từng đơn vị hoạt động để lập ngân sách và phân bổ, không nên tính toán theo nguồn thu tính trên mỗi sinh viên.

Hội đồng trường sẽ quyết định loại hình đào tạo, chương trình giáo dục nào được coi là chiến lược của đơn vị để trên cơ sở đó ưu tiên phân bổ nguồn lực cho nhóm hoạt động này (Kohtamäki, 2009). Các trường nên có thỏa thuận với các đơn vị trực thuộc về các kết quả hoạt động và tài chính, giao chỉ tiêu và quy định mức trần ngân sách cho phép cho từng đơn vị. Các phòng ban, đơn vi trực thuộc cũng lập kế hoạch ngân sách cho riêng mình.

Nguyên tắc cốt lõi áp dụng trong việc phân bổ nguồn lực đó là tính toán lượng tiền cần thiết cho từng đơn vị duy trì hoạt động. Nguyên tắc này đã chứng minh tính hiệu quả và các đơn vị trở nên có trách nhiệm hơn (Kohtamäki, 2009).

Theo Lapovsky (2014), các trường đại học tại Mỹ chú trọng hơn đến vấn đề tăng hiệu quả hoạt động: Nhiều trường đại học đang tìm cách hoạt động hiệu quả hơn về chi phí (đặc biệt bằng cách giảm chi phí cố định như chi phí cơ sở vật chất) để cải thiện sự ổn định tài chính.

Cùng với đó, các cơ sở GDĐH xây dựng thêm các chương trình đào tạo trực tuyến: Nhiều trường đại học đang thử nghiệm các chương trình đào tạo trực tuyến để tiết kiệm chi phí, vì không yêu cầu cơ sở vật chất trong lớp học, có thể tận dụng những hạ tầng công nghệ sẵn có và dễ dàng mở rộng quy mô.

Thực trạng quản lý tài chính tại các trường đại học công lập tự chủ tại Việt Nam

Công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập có vai trò rất quan trọng nhằm đảm bảo việc huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí thực hiện các mục tiêu phát triển trong bối cảnh chuyển đổi từ cơ chế bao cấp, sang cơ chế tự chủ tài chính.

Trong những năm gần đây, Chính phủ thực hiện chủ trương giảm dần cấp ngân sách thường xuyên cho trường đại học công lập. Điều này được thể hiện qua 2 chính sách quan trọng của Chính phủ, đó là: Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động giai đoạn 2014-2017 và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.

Theo kết quả báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ chế tự chủ tài chính áp dụng đối với các trường đạt được một số kết quả chủ yếu sau:

Thứ nhất, các trường được chủ động xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ trong phạm vi nguồn tài chính được sử dụng phù hợp với đặc thù của đơn vị, góp phần tiến tới quản lý hoạt động của đơn vị theo đầu ra.

Thứ hai, thúc đẩy các trường mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các hoạt động giáo dục và đào tạo để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao và đa dạng của xã hội. Nhiều hình thức đào tạo đa dạng đã được mở ra như đào tạo chính quy và đào tạo thường xuyên; đào tạo tập trung và đào tạo từ xa; vừa học vừa làm, bồi dưỡng; tổ chức liên kết đào tạo với các cơ sở khác trong và ngoài nước; mời chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam để giảng dạy…

Thứ ba, bảo đảm công tác quản lý tài chính ở các cơ sở GDĐH công lập được thực hiện thống nhất dân chủ, công khai, minh bạch; thúc đẩy các đơn vị tự chủ tạo lập và sử dụng các nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước cùng với kinh phí ngân sách cấp có hiệu quả để phát triển hoạt động sự nghiệp. Các trường cũng đã hoàn thiện công tác hạch toán và kết quả tài chính, khai thác nguồn thu, đổi mới phương thức quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc quản lý nguồn lực tài chính tại các cơ sở GDĐH công lập ở Việt Nam thời gian qua còn tồn tại một số vấn đề sau:

Về huy động nguồn lực tài chính, bản thân các trường chưa xác định chính xác, đầy đủ mục tiêu của tự chủ tài chính, chưa huy động hợp lý các nguồn thu và chưa tận dụng tối đa các nguồn lực tài chính cho đơn vị.

Thậm chí, nhiều trường thu vượt, thu sai quy định, lạm thu các khoản thu ngoài quy định. Theo Kiểm toán Nhà nước, năm 2019, các trường thu học phí vượt quy định, thu ngoài quy định hơn 14.567 tỷ đồng. Phương thức phát triển nguồn lực tài chính từ học phí chủ yếu vẫn là tăng định mức học phí và mở rộng quy mô đào tạo.

Bên cạnh đó, các nguồn lực tài chính được sử dụng chưa thật sự hợp lý. Việc quản lý và sử dụng tài sản kém hiệu quả…

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài chính tại các trường đại học công lập ở Việt Nam theo hướng tự chủ

Tự chủ đại học đang là xu thế tất yếu của xã hội phát triển, do vậy, các các trường đại học công lập phải có lộ trình thích nghi dần với cơ chế tự chủ. Qua thực tiễn nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp liên quan đến 3 vấn đề cơ bản, đó là: Huy động nguồn lực tài chính; sử dụng nguồn lực tài chính; và sử dụng các công cụ kiểm soát việc quản lý tài chính.

Huy động các nguồn tài chính

Nguồn lực tài chính của các cơ sở GDĐH công lập là yếu tố hết sức quan trọng, là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình cải cách đổi mới hoạt động của nhà trường. Mục tiêu đặt ra đối với các trường là đa dạng hóa, các nguồn lực, các kênh và cách thức huy động, đặc biệt chú trọng đến việc huy động nguồn lực tài chính từ hoạt động sự nghiệp đào tạo nghiên cứu khoa học. Cùng với đó, các trường đại học công lập cần tập trung triển khai các nội dung sau:

Một là, để các trường tối đa hóa doanh thu hoạt động thì cách trực tiếp và phổ biến nhất đó là gia tăng số lượng sinh viên đầu vào, mở rộng quy mô của nhà trường.

Muốn vậy, các trường phải không ngừng nâng cao danh tiếng, giá trị và tầm ảnh hưởng của tổ chức, các trường cần chú trọng xây dựng và giữ vững thương hiệu trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học bởi thương hiệu chính là tiền đề quyết định cho việc gia tăng việc huy động các nguồn lực tài chính của nhà trường.

Hai là, tăng cường nguồn thu được tạo ra từ các hoạt động thương mại, hợp đồng nghiên cứu và cung cấp dịch vụ (chẳng hạn như: Cho thuê cơ sở vật chất, dịch vụ ăn uống, dịch vụ lưu trú, hợp đồng tư vấn cho các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, các tổ chức...) hay từ các nguồn quỹ từ thiện, tài trợ từ mạng lưới cựu sinh viên.

Sử dụng nguồn lực tài chính

- Về quản lý các khoản chi: Các cơ sở GDĐH trước hết cần thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, tập trung nguồn lực tài chính để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường, từng bước giảm dần tỷ trọng các khoản chi mang tính chất hành chính.

Để hướng tới mục tiêu đó, tùy theo điều kiện của từng trường, cần tập trung nguồn lực tài chính cho việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giảng viên; nghiên cứu cập nhật, đổi mới nội dung chương trình; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học; song song với đó là nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa thông qua việc tăng cường cơ sở vật chất, cơ sở dữ liệu và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu.

- Về việc phân bổ nguồn lực tài chính: Nhà trường cần xây dựng các tiêu chí đánh giá năng lực và kết quả hoạt động của cán bộ, viên chức trong trường dựa trên tính chất từng loại công việc, từ đó điều chỉnh phương án chi thu nhập tăng thêm cho phù hợp với năng lực và kết quả cống hiến; Hoàn thiện và tổ chức thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ với các yêu cầu: đảm bảo tính công khai minh bạch, dân chủ, đảm bảo vai trò kiểm soát của Ban thanh tra nhân dân trong nhà trường.

- Về cách thức hoạch định ngân sách đơn vị: Mỗi trường cần thực hiện hoạch định ngân sách đơn vị, ngân sách này phải gắn kết chặt chẽ với mục tiêu hoạt động và các chỉ số đánh giá. Phần quan trọng của thiết kế ngân sách đó là phải lượng hóa mục tiêu tuyển sinh viên, cụ thể số lượng sinh viên đào tạo chuyên ngành, số lượng học viên các khóa ngắn hạn, tổng số đối tượng người học và mục tiêu giảm thiểu chi phí trên một sinh viên và tính toán lợi nhuận trên mỗi sinh viên.

Các trường nên tiến hành hoạch định theo mô hình từ trên xuống. Trước khi phân bổ cho từng đơn vị trực thuộc, hội đồng trường cần tính toán tài chính phân bổ cho khoản đầu tư chung, quản lý chung và các hoạt động chung của tổ chức. Sau đó, xây dựng và hoàn thiện một số chính sách khoán và giao quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị có quy mô lớn của trường.

Sử dụng các công cụ kiểm soát việc quản lý tài chính

Việc đánh giá hiệu quả tài chính của các trường đại học khá phức tạp bởi những nhà quản lý phải luôn ý thức được rằng đơn vị mình không chỉ đánh giá đơn thuần dựa trên các tiêu chí thương mại mà phải gắn với bản chất của hoạt động học thuật, cũng như trách nhiệm với xã hội và vai trò dịch vụ công mà các trường phải đảm nhận.

Các trường có thể nghiên cứu và vận dụng áp dụng những công cụ quản lý phù hợp một cách linh hoạt như: Quản lý thông qua mô hình thẻ điểm cân bằng, Quản trị theo mục tiêu và kết quả then chốt, hay Quản lý tài chính thông qua các chỉ số đánh giá hiệu quả công việc. Cụ thể:

- Mô hình thẻ điểm cân bằng: Xem xét các hoạt động của trường đại học từ 4 khía cạnh và phân tích mối quan hệ giữa các khía cạnh với nhau: học hỏi và phát triển; các quy trình nội bộ; khách hàng; tài chính.

Mô hình BSC sẽ đánh giá được các công  việc trong hiện tại và kết nối nó với thành quả trong tương lai, thành quả có thể là về tài chính cũng có thể là phi tài chính, nhưng trong các trường đại học có những thành quả phi tài chính lại là tiền đề quan trọng cho thành quả tài chính cần đạt được, bốn khía cạnh trong mô hình này cần được kết nối nó lại với nhau.

Các trường tự chủ có thể thu hút được nhiều sinh viên vào học; có quy trình cải tiến mới hiệu quả hơn và việc đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện thường xuyên với phạm vi mở rộng hơn; nhưng nếu không chỉ ra được tác động của các hoạt động đó đến các chỉ số tài chính thì nỗ lực của các trường tự chủ sẽ giảm bớt giá trị.

Cần gắn các hoạt động của trường với một số vấn đề tài chính như nguồn kinh phí huy động được, điều chỉnh giảm các chi phí không cần thiết và kiểm soát chi phí chặt chẽ, hiệu quả của việc đầu tư kinh phí cho các hoạt động…

- Sử dụng OKRs: Đây là công cụ được triển khai nhằm hỗ trợ việc quản lý mục tiêu, đảm bảo việc hợp tác giữa các cá nhân trong tổ chức được diễn ra xuyên suốt, tập trung vào các nỗ lực đóng góp của cá nhân, nhóm, tổ chức, đo lường các đóng góp ấy để giúp tổ chức phát triển.

OKRs là một hệ thống quản trị mục tiêu, trong đó, doanh nghiệp hay các trường sử dụng OKRs như một phương pháp để định lượng và tạo ra những kết quả then chốt cụ thể nhằm hiện thực hóa mục tiêu trong một thời hạn nhất định.

- Sử dụng KPIs: Các trường cần chú trọng các tỷ số đo lường hiệu quả tài chính phổ biến như: doanh thu trên mỗi giảng viên, học phí cho mỗi đơn vị học tập, và cả tài trợ nghiên cứu cho mỗi học tập đơn vị học thuật. Ba tỷ số này được cho là bị ảnh hưởng bởi chất lượng, danh tiếng và hiệu quả không chỉ của trường đại học mà còn của các giảng viên.

Bên cạnh đó, cần chú ý đến một số chỉ số khác dùng để đánh giá công tác tài chính như: Tỷ lệ doanh thu trên giảng viên; Tỷ lệ học phí trên mỗi đơn vị học tập; Tỷ lệ giữa số giảng viên trên tổng số nhân viên; Tỷ lệ nhân viên phòng ban trên sinh viên; Tỷ lệ phí học tập trên mỗi sinh viên; Doanh thu trên mỗi sinh viên.

Mặt khác, để đánh giá tính thanh khoản, các trường cũng có thể đo lường tương tự như đối với các doanh nghiệp, đó là sử dụng hệ số thanh toán hiện hành và hệ số thanh toán nhanh, hay tỷ lệ nợ trên vốn.

Kết luận

Việc quản lý tài chính trong các trường đại học công lập theo hướng tự chủ trước hết phải tuân thủ theo những quy định của Nhà nước, bảo đảm thực hiện nghiêm các nguyên tắc: Cân bằng giữa thu và chi; theo kế hoạch, đúng mục đích; tiết kiệm, hiệu quả, tránh phân tán dàn trải.

Trong việc huy động nguồn lực nên chú trọng phát huy tiềm năng lợi thế của các cơ sở GDĐH công lập, không chỉ quan tâm đến hoạt đông thu học phí, mà chú trọng đến việc huy động từ các dịch vụ cung ứng kèm theo từ quỹ hiến tặng, đặc biệt từ nguồn thu kết quả nghiên cứu khoa học.

Bên cạnh đó, dù được giao tự chủ tài chính hoàn toàn hay một phần, điều quan trọng là các trường đại học được yêu cầu đảm bảo trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng tài chính với các các bên liên quan, phải tăng cường giám sát của Nhà nước và cộng đồng với các trường qua các tiêu chí cụ thể và minh bạch.

“Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ đề tài KHCN cấp Bộ "Nghiên cứu các giải pháp tài chính, quản lý và kiểm soát chất lượng cho các trường đại học Việt Nam theo hướng tự chủ hoàn toàn" - Mã số: CT-2018-05-05”.

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017;

2. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;

3. Chính phủ (2020), Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập;

4. Aebischer, P., & Escher, G. (2016), A Business Model for the 21st Century European University. In L. E. Weber & J. J. Duderstadt (Eds), University Priorities and Constraints (chapter III, pp. 185–198). Paris: Economica ;

5. Estermann, T. (2015), University Autonomy in Europe. Retrieved from https:// core.ac.uk/reader/197252400;

6. Jongbloed, B. (2000), The funding of higher education in developing countries. Management and Policy in Higher Education, 32, 13-42;

7. Kohtamäki, V. (2009), Financial Autonomy in Higher Education Institutions- Perspectives of Senior Management of Finnish AMK Institutions. Tampere University Press;

8. Mulholland, B. (2017), Ratio analysis of financial KPI in the Higher Education sector: a case study;

9. Pruvot, E. B., Claeys-Kulik, A. L., & Estermann, T. (2015), Strategies for efficient funding of universities in Europe. In The European Higher Education Area (pp. 153-168). Springer, Cham.

 

TS. Bùi Quang Hùng, TS. Trần Thị Thanh Hải, ThS. Trần Hoàng Tâm, ThS. Đào Thị Minh Huyền, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

(*) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2021