Nâng cao hiệu quả giám sát tài chính tại doanh nghiệp nhà nước
Giám sát tài chính là nhiệm vụ quan trọng của quá trình đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt, trong bối cảnh Chính phủ đang đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước thì việc tăng cường hoạt động giám sát tài chính tại các doanh nghiệp này lại càng trở thành vấn đề có tính thời sự, cấp bách. Bài viết trao đổi về giám sát tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, đồng thời đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả giám sát trong thời gian tới.
Nhìn lại công tác giám sát tài chính doanh nghiệp nhà nước
Theo quy định tại Nghị định số 87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 của Chính phủ, giám sát tài chính là việc theo dõi, kiểm tra, thanh tra, đánh giá các vấn đề về tài chính, chấp hành chính sách pháp luật về tài chính của doanh nghiệp (DN).
Mục đích của việc giám sát tài chính DNNN nhằm đánh giá đầy đủ, kịp thời tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của DN để có biện pháp khắc phục tồn tại, hoàn thành mục tiêu, kế hoạch kinh doanh, nhiệm vụ công ích, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và khả năng cạnh tranh; Giúp Nhà nước, cơ quan đại diện chủ sở hữu kịp thời phát hiện các yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, cảnh báo và đề ra biện pháp chấn chỉnh; Thực hiện công khai minh bạch tình hình tài chính của DNNN; Nâng cao trách nhiệm của DN trong việc chấp hành các quy định của pháp luật trong quản lý và sử dụng vốn, tài sản nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại DN…
Theo Báo cáo kết quả công tác sắp xếp đổi mới DNNN giai đoạn 2011-2015 của Ban Chỉ đạo sắp xếp đổi mới DNNN, sau hơn 15 năm sắp xếp lại, DNNN đã giảm mạnh về số lượng, đặc biệt đối với những DN quy mô nhỏ, DN kém hiệu quả, DN ở các lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ. Năm 2001 cả nước có khoảng 6.000 DNNN, dàn trải trên 60 ngành, lĩnh vực, đến năm 2011 có 1.369 DNNN và tính đến hết tháng 10/2016 chỉ còn 718 DNNN, tập trung vào 19 ngành, lĩnh vực.
Đại bộ phận DNNN có quy mô vừa và lớn, giảm nhiều về số lượng nhưng năng lực và quy mô tăng lên. Mặc dù số lượng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong khu vực DN (khoảng 0,67%) nhưng DNNN vẫn nộp NSNN đáng kể, đóng góp lớn nhất vào GDP (DNNN 28,8%, DN ngoài nhà nước 11,8% và DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 17,9%). Số liệu của Bộ Tài chính cho biết, tính đến đầu năm 2016, Nhà nước đầu tư vốn tại hơn 1.000 DN, trong đó, 781 DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn (sau đây gọi là DNNN) và 248 DN có cổ phần của Nhà nước.
Tổng tài sản của các DNNN hơn 3.105 nghìn tỷ đồng, với hệ số vốn chủ sở hữu khoảng 40%. Như vậy, có thể thấy rằng, số lượng DN có vốn đầu tư của Nhà nước hiện nay khá lớn, với số tiền đầu tư dàn trải vào nhiều DN, nhiều lĩnh vực và do nhiều cơ quan thực hiện chức năng đại diện chủ ở hữu, khiến cho công tác giám sát tài chính gặp nhiều khó khăn, từ đó dẫn đến tình trạng lãng phí, thất thoát trong đầu tư và quản lý vốn đầu tư của Nhà nước, cũng như tình trạng hoạt động kém hiệu quả của các DNNN.
Trong những năm qua, công tác giám sát tài chính DNNN đã có những kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt, hệ thống cơ chế, chính sách để thực hiện quản lý và giám sát vốn đầu tư tại DNNN cũng đã được Chính phủ, Bộ Tài chính từng bước ban hành đồng bộ và liên tục được sửa đổi để phù hợp với thực tiễn. Đáng chú ý, sau gần 2 năm triển khai Nghị định số 87/2015/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 200/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính, đã phần nào hạn chế được rủi ro thất thoát trong quản lý, đầu tư vốn tại các DNNN.
Giám sát tài chính đối với DNNN đã giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn và chủ thể quản lý DN đưa ra những giải pháp quản lý hữu hiệu nhằm bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động DN. Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của người đại diện phần vốn nhà nước tại DN đã được xác lập rõ hơn phương thức quản lý, giám sát được thay đổi gắn với phân loại, đánh giá DN...
Đặc biệt, với những DNNN hoạt động không hiệu quả, có dấu hiệu mất an toàn về tài chính, cũng đã có những quy định rõ ràng để giám sát tài chính đặc biệt đối với DN đó.
Cụ thể, quy trình xử lý của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với DN được đưa vào diện giám sát tài chính đặc biệt gồm các bước như: Phối hợp DN tiến hành phân tích, đánh giá các nguyên nhân chính dẫn tới khả năng mất an toàn tài chính của DN; Phối hợp với DN xây dựng phương án khắc phục các khó khăn tài chính của DN; Quy định tần suất báo cáo, các tiêu chí giám sát và cơ chế phản hồi thông tin giữa cơ quan đại diện chủ sở hữu, DN và các bên liên quan khác (nếu cần); Giám sát DN thực hiện phương án đã được phê duyệt; Phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp tiến hành phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh, công tác quản lý tài chính, điều hành sản xuất kinh doanh của DN để đưa ra ý kiến chỉ đạo đối với DN; Trong trường hợp cần thiết, cơ quan đại diện chủ sở hữu có thể tổ chức kiểm tra hoặc phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp tổ chức kiểm tra DN nhằm đánh giá tính trung thực, chính xác về các chỉ tiêu trong các báo cáo của DN; Trình Thủ tướng Chính phủ phương án xử lý trong trường hợp DN đã thực hiện các yêu cầu của cơ quan đại diện chủ sở hữu và cơ quan tài chính mà kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của DN không được cải thiện…
Phương thức giám sát tài chính đối với DNNN cũng được các chuyên gia đánh giá cao vì đã bao quát được các hoạt động của DNNN. Theo quy định hiện hành, việc giám sát tài chính thực hiện bằng phương thức như sau: Trực tiếp (Kiểm tra, thanh tra trực tiếp tại DN); Gián tiếp (Theo dõi và kiểm tra tình hình của DN thông qua các báo cáo tài chính (BCTC), thống kê và báo cáo khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan đại diện chủ sở hữu); Giám sát trước (Xem xét, kiểm tra tính khả thi của các kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, dự án đầu tư, phương án huy động vốn, các dự án và phương án khác của DN); Giám sát trong (Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch, dự án của DN, việc chấp hành các quy định của pháp luật, của cơ quan đại diện chủ sở hữu trong suốt quá trình triển khai kế hoạch, dự án); và Giám sát sau (Kiểm tra kết quả hoạt động của DN trên cơ sở các báo cáo định kỳ, kết quả chấp hành pháp luật của cơ quan đại diện chủ sở hữu hoặc điều lệ DN, việc tuân thủ các quy định của pháp luật).
Trong đó, việc giám sát trước và giám sát trong nhằm phát hiện kịp thời các rủi ro về tài chính, hạn chế trong quản lý tài chính của DN và có cảnh báo, giải pháp xử lý. Ngoài các phương thức trên, việc kiểm tra, thanh tra thực hiện định kỳ hoặc đột xuất theo quy định của pháp luật về kiểm tra, thanh tra.
Ngoài ra, theo Thông tư số 200/2015/TT-BTC, để thực hiện nội dung giám sát tài chính DNNN, DN phải lập báo cáo phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả hoạt động của DN (Báo cáo đánh giá tình hình tài chính) theo các mẫu biểu ban hành kèm theo Thông tư này cùng với các quy định sau: Tình hình bảo toàn và phát triển vốn; Việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại DN (Tình hình đầu tư Dự án; Tình hình đầu tư vốn ra ngoài DN; Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn huy động; Tình hình quản lý tài sản, nợ phải thu, nợ phải trả); Tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính; Tình hình thực hiện nghĩa vụ với NSNN; Tình hình phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ, tình hình biến động của Quỹ Hỗ trợ sắp xếp DN tại tập đoàn kinh tế, tổng công ty…; Tình hình chấp hành chế độ, chính sách và pháp luật, trong đó đánh giá việc tuân thủ và chấp hành các quy định bao gồm các lĩnh vực về đầu tư, quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại DN, thuế, thu nộp NSNN, chế độ BCTC, báo cáo giám sát tài chính và báo cáo khác; Giải trình của DN đối với các ý kiến đánh giá của DN kiểm toán độc lập, ý kiến của Kiểm soát viên, của cơ quan đại diện chủ sở hữu và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về BCTC của DN; Tình hình thực hiện việc cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại DN, cơ cấu lại vốn của DN đầu tư tại công ty con, công ty liên kết… Bên cạnh đó, việc giám sát tài chính của các DNNN còn tập trung vào các công ty con, công ty liên kết và giám sát vốn của DN đầu tư ra nước ngoài thông qua việc sử dụng các phương thức giám sát như: Giám sát trực tiếp, giám sát gián tiếp, giám sát trước, giám sát trong, giám sát sau, trong đó tập trung vào phương thức giám sát gián tiếp.
Nâng cao hiệu quả giám sát tài chính trong thời gian tới
Bên cạnh những kết quả tích cực, thực tiễn cho thấy, công tác giám sát tài chính tại các DNNN hiện cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Theo đó, cơ chế phân cấp trong thực hiện các quyền sở hữu tại DNNN còn phân tán, chồng chéo; Giám sát vốn nhà nước đầu tư tại DN chưa chặt chẽ dẫn đến hiệu quả chưa cao; Công tác giám sát tài chính được thực hiện chủ yếu đối với các đối tượng trực tiếp sử dụng vốn nhà nước vào hoạt động kinh doanh, chưa chú trọng đến giám sát quá trình thực thi chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước… Để khắc phục những hạn chế trong công tác giám sát tài chính tại các DNNN, trong thời gian tới, cần chú trọng triển khai các nội dung sau:
- Tiếp tục nghiêm túc thực hiện các quy định về giám sát tài chính tại Nghị định số 87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 của Chính phủ và Thông tư số 200/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính. Trong đó, cần quan tâm đến các nội dung như: Nội dung giám sát, Công tác tổ chức giám sát; Căn cứ thực hiện giám sát tài chính; Phương thức giám sát; Quy trình xử lý của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với DN được đưa vào diện giám sát tài chính đặc biệt; Trách nhiệm của Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc DN thuộc diện giám sát tài chính đặc biệt…
- Nghiên cứu bổ sung các chỉ tiêu phản ánh tình hình huy động vốn như hệ số nợ; các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán như hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán ngay; Các chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng vốn như hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh, vòng quay vốn lưu động; Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời như khả năng sinh lời hoạt động, khả năng sinh lời tài sản, khả năng sinh lời vốn chủ. Từ đó, giúp nhận diện rủi ro tài chính của các DNNN để có biện pháp điều hành, xử lý kịp thời.
- Bổ sung các chỉ tiêu giám sát liên quan đến đặc thù ngành nghề kinh doanh, bởi vì đặc thù ngành nghề kinh doanh sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất và hiệu quả hoạt động của DN như các chỉ tiêu liên quan đến sản lượng khai thác, thăm dò; năng suất lao động trên doanh thu…
- Cần phải tổ chức bộ máy giám sát một cách chặt chẽ, các bộ ngành và địa phương phải có đầu mối thống nhất cũng như việc công khai quy trình giám sát cũng như nguồn nhân lực cho công tác giám sát tài chính ở tất cả các cấp. Tách bạch vai trò giữa cơ quan giám sát và cơ quan thực hiện chức năng chủ sở hữu để đảm bảo sự độc lập, khách quan của công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả DN. Chức năng giám sát của các cơ quan giám sát (Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cần độc lập tương đối, đồng thời phối hợp cùng cơ quan đại diện chủ sở hữu. Cần có cơ chế giám sát thực hiện công khai thông tin của các DN và các cơ quan chủ sở hữu, gắn với chế tài cụ thể và đủ mạnh…
- Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán về tài chính đối với DNNN, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước; Thực hiện công khai, minh bạch, đúng pháp luật trong đầu tư, quản lý tài chính, mua sắm, phân phối thu nhập. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, thực hiện nghiêm túc chế độ giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính. Xử lý nghiêm lãnh đạo DNNN, người đại diện phần vốn nhà nước tại DN không nghiêm túc thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định, sai mục đích, kém hiệu quả, gây thất thoát, thua lỗ vốn và tài sản của Nhà nước…
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ, Nghị định số 87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào DN; Giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của DNNN và DN có vốn Nhà nước;
2. Bộ Tài chính, Thông tư số 200/2015/TT-BTC hướng dẫn một số nội dung về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào DN; Giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của DNNN và DN có vốn Nhà nước;
3. TS. Nguyễn Mạnh Thiều (2017), Về phương thức giám sát tài chính đối với DN có vốn nhà nước, Tạp chí Tài chính tháng 5/2017;
4. TS. Phạm Thái Hà, Kinh nghiệm giám sát tài chính DNNN tại một số nước, Tạp chí Tài chính tháng 9/2017;
5. Thùy Dương (2016), Giám sát tài chính doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều khó khăn, Thông tấn Xã Việt Nam.