Hướng tới mục tiêu cải cách thuế bảo vệ môi trường
Nghiên cứu xây dựng Luật Thuế bảo vệ môi trường sửa đổi, bổ sung là việc làm cần thiết đối với quá trình thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước; hoàn thiện chính sách tài chính về bảo vệ môi trường. Luật Thuế bảo vệ môi trường sửa đổi sẽ góp phần khắc phục được những tồn tại của Luật Thuế bảo vệ môi trường hiện hành, đồng thời, phù hợp với mục tiêu cải cách thuế bảo vệ môi trường theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2020.
Thực tiễn triển khai và những vấn đề đặt ra
Có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2012, sau 5 năm triển khai thực hiện đến nay, Luật Thuế bảo vệ môi trường (BVMT) đã cơ bản đạt được mục tiêu đã đề ra. Cụ thể:
- Thuế BVMT đã góp phần nâng cao trách nhiệm và nhận thức của xã hội đối với việc BVMT; Quy định phải nộp thuế BVMT đối với hoạt động sản xuất nhập khẩu đã tác động đến việc khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường; Nhiều siêu thị, khách sạn đã sử dụng các sản phẩm bằng giấy, sản phẩm thân thiện với môi trường thay thế cho các sản phẩm túi nilon. Người dân đã có ý thức hơn trong lựa chọn sản phẩm tiêu dùng nhằm chống ô nhiễm, BVMT.
- Ý thức của người tiêu dùng cũng như nhận thức của xã hội về môi trường đã được nâng lên, tác động trực tiếp đến mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước.
- Thuế BVMT đã đóng góp nguồn lực tài chính đáng kể cho ngân sách nhà nước (NSNN), tăng thêm nguồn thu, đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho NSNN.
Thống kê cho thấy, số thu từ thuế BVMT liên tục tăng trưởng qua từng năm, đến năm 2017 đã tăng hơn 4 lần so với số thu năm 2012 - Năm đầu tiên thực hiện Luật Thuế BVMT. Số thu từ thuế BVMT cụ thể qua các năm: Năm 2012 là 11.160 tỷ đồng; Năm 2013 là 11.512 tỷ đồng; Năm 2014 là 11.970 tỷ đồng; Năm 2015 là 27.020 tỷ đồng; Năm 2016 khoảng 44.323 tỷ đồng; Dự toán thu năm 2017 là 45.165 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 5% tổng thu NSNN (45.165/990.280).
Bên cạnh những kết quả nêu trên, trong quá trình thực thi Luật Thuế BVMT vào cuộc sống đã phát sinh một số bất cập, hạn chế sau:
Thứ nhất, đối tượng chịu thuế còn hạn hẹp. Luật Thuế BVMT quy định chỉ có 8 nhóm chịu thuế: Xăng, dầu, mỡ nhờn; Than đá; Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC); Túi nilon thuộc diện chịu thuế; Thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc bảo quản lâm sản thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng.
Hướng dẫn các sản phẩm chịu thuế quy định tại các văn bản dưới luật cũng chưa rõ ràng, nhất là quy định về túi nilon chịu thuế… còn gây khó khăn trong triển khai thực hiện, tính pháp lý chưa cao.
Dung dịch HCFC chịu thuế BVMT chưa được hướng dẫn cụ thể tại các văn bản Luật, Nghị định, Thông tư. Riêng về mặt hàng xăng, dầu, mỡ nhờn, mặc dù Luật đã quy định chi tiết (có 7 nhóm sản phẩm), tuy nhiên người tiêu dùng chưa thấy được sự chênh lệch trong giá bán.
Thứ hai, về thời điểm tính thuế BVMT: Theo quy định của Luật Thuế BVMT hiện hành thì thời điểm tính thuế BVMT đối với hàng hóa sản xuất bán ra, trao đổi, tặng cho là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa; Đối với hàng hóa nhập khẩu, thời điểm tính thuế là thời điểm đăng ký tờ khai hải quan.
Quy định này là phù hợp và mang tính thống nhất đồng bộ với các sắc thuế gián thu khác như thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên, tại khoản 4, Điều 9 Luật Thuế BVMT hiện hành quy định: “Đối với xăng, dầu sản xuất hoặc nhập khẩu để bán, thời điểm tính thuế là thời điểm đầu mối kinh doanh xăng, dầu bán ra”.
Quy định khác biệt về thời điểm tính thuế BVMT đối với mặt hàng xăng, dầu nhằm phù hợp với chế độ phân cấp NSNN tương ứng đã phá vỡ tính liên hoàn, đồng bộ và tính thống nhất trong việc tổ chức quản lý thu thuế BVMT.
Thứ ba, về mức thu thuế BVMT: Với các loại thuế khác, mức thu được tính theo tỷ lệ nhất định trên giá tính thuế. Theo đó, giá tính thuế càng cao thì mức thuế càng lớn.
Tuy nhiên, thuế BVMT được tính theo mức thu tuyệt đối/trên số lượng đơn vị sản phẩm (Một lít xăng, dầu, một kg túi nilon hoặc thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng…; một tấn than đá…); đồng thời, có khung trần tối thiểu, tối đa tiền thuế cho một đơn vị sản phẩm chịu thuế để chủ động xác định mức thuế phù hợp cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với đặc thù của loại thuế này và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, mức thu cụ thể đối với một số mặt hàng chưa tương xứng với mức độ ô nhiễm gây ra (như túi nilon) cần được điều chỉnh cho phù hợp.
Thứ tư, về quản lý thu thuế BVMT: Theo Luật Thuế BVMT, người nộp thuế BVMT là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế.
Các sản phẩm có quy mô sản xuất lớn như: Xăng dầu, than, các loại thuốc diệt cỏ; Thuốc trừ mối; Thuốc bảo quản lâm sản thuộc loại hạn chế sử dụng… quản lý ở khâu sản xuất để thu thuế BVMT tương đối tốt. Riêng mặt hàng túi nilon việc quản lý thu thuế đối với các cơ sở sản xuất, gia công nhỏ lẻ của các hợp tác xã, gia đình, nhóm, cá nhân sản xuất kinh doanh chưa có hiệu quả cao.
Thực tế cho thấy, việc nghiên cứu xây dựng Luật Thuế BVMT sửa đổi, bổ sung là thực sự cần thiết nhằm tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong quá trình hoàn thiện chính sách tài chính về BVMT; Khắc phục tính thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách thuế hiện nay; Đồng thời, phù hợp với mục tiêu cải cách thuế BVMT theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2020; Khắc phục những vướng mắc, hạn chế của chính sách thuế BVMT hiện hành.
Mục tiêu sửa đổi, bổ sung thuế bảo vệ môi trường
Việc sửa đổi, bổ sung Luật Thuế BVMT nhằm vào các mục tiêu và nội dung cụ thể sau:
Một là, cải cách thuế BVMT, góp phần khắc phục tính thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách.
Hệ thống chính sách và quản lý thuế của Việt Nam đang hướng đến tính minh bạch, thống nhất, hiệu quả, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Đồng thời, thực hiện cải cách thủ tục hành chính thuế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp (DN) trong quá trình thực thi theo tinh thần các nghị quyết của Chính phủ, trong đó nổi bật là các Nghị quyết 19/NQ-CP năm 2014, 2015, 2016 và năm 2017.
Tuy nhiên, nhằm giải quyết tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho DN, hệ thống chính sách thuế đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần theo các mục tiêu khác nhau nên trong một số trường hợp cụ thể đã làm mất tính hệ thống, liên hoàn, đồng bộ của hệ thống chính sách thuế.
Chiến lược Cải cách hệ thống thuế (ban hành kèm theo Quyết định 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ) đã đưa ra mục tiêu cải cách tổng quát là: “Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước…”.
Trong đó, nội dung cải cách chính sách thuế BVMT là: “Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung đối tượng thu, điều chỉnh mức điều tiết nhằm góp phần hạn chế sử dụng những hàng hóa gây tác động xấu đến môi trường sinh thái”.
Chính sách đổi mới mở cửa thời gian qua mặc dù đã đạt được những thành công nhất định trong xóa đói, giảm nghèo, mức độ tăng trưởng GDP hợp lý nhưng cũng phải đối diện với những thách thức về ô nhiễm môi trường, về khai thác lãng phí, dẫn đến cạn kiệt tài nguyên, nạn phá rừng… Điều này tác động rất lớn đến môi trường. Thách thức này đòi hỏi phải sớm tìm ra các giải pháp hữu hiệu để hạn chế ô nhiễm môi trường ở Việt Nam.
Để khắc phục những tồn tại nêu trên, Luật Thuế BVMT sửa đổi đã sửa đổi bổ sung các nội dung về phạm vi điều chỉnh, thời điểm tính thuế đối sản phẩm xăng dầu, biểu khung thuế BVMT đối với một số sản phẩm chịu thuế… sẽ góp phần khắc phục tính thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách, đảm bảo chính sách được công khai, minh bạch, dễ hiểu và tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế.
Hai là, cải cách thuế BVMT góp phần tăng thêm nguồn thu cho NSNN, đảm bảo nhu cầu chi, trong đó có chi cho công tác BVMT.
Chiến lược cải cách hệ thống thuế được thực hiện theo hướng giảm điều tiết thuế trực thu, tạo điều kiện thuận lợi cho DN. Cụ thể, thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) có xu hướng giảm dần. Trước đây, thuế TNDN là 32%, sau đó giảm xuống mức 28%, 25%, 22% và từ ngày 1/1/2016 thuế suất thuế TNDN chỉ còn 20%.
Thuế thu nhập cá nhân cũng có bước giảm đột phá, thông qua điều chỉnh nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế và giảm biểu thuế lũy tiến từng phần đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công. Các khoản thu nhập từ đầu tư chứng khoán, chuyển nhượng bất động sản... đều được cải cách sửa đổi theo hướng đơn giản, giảm thiểu rủi ro trong thực hiện.
Thuế GTGT được bổ sung thêm các điều khoản 7 nhóm hàng hóa dịch vụ không phải kê khai tính thuế, có nghĩa là DN không phải nộp thuế GTGT đầu ra, nhưng được khấu trừ thuế đầu vào GTGT, tạo điều kiện thuận lợi cho DN.
Đồng thời, chuyển một số nhóm hàng hóa dịch vụ phục vụ trực tiếp cho chăn nuôi, nông nghiệp như phân bón, thức ăn gia súc, gia cầm; máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi… từ thuế suất 5% sang đối tượng không chịu thuế GTGT.
Lộ trình cải cách thuế định ra mục tiêu giảm tỷ lệ điều tiết thuế và giảm tỷ lệ thuế, phí/GDP nhưng đồng thời phải thực hiện được chỉ tiêu tổng số tiền thuế thực nộp vào NSNN năm sau tăng hơn năm trước từ 10%/năm trở lên… Tỷ lệ tăng trưởng số thu này được tính toán trong cơ cấu cân đối thu chi NSNN theo dự toán hàng năm được Quốc hội thông qua.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là nếu chính sách giảm điều tiết ở một số sắc thuế thì phải tăng cường công tác quản lý thuế, công tác thanh, kiểm tra thuế và nghiên cứu điều chỉnh tăng một số sắc thuế khác mang tính định hướng sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của xã hội; bảo vệ tài nguyên, BVMT… Thuế BVMT đối với xăng dầu, túi nilon có tác động lớn đến môi trường nên khi tăng thuế sẽ đẩy mạnh việc sử dụng nguồn năng lượng tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn; hoặc người dân, DN sẽ cân nhắc chuyển sang sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (ban hành kèm Quyết định 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020) cũng đã đưa ra giải pháp: “Tăng cường áp dụng các công cụ tài chính (thuế, phí…) để tăng nguồn tài chính cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia”.
Trên tinh thần đó, dự thảo Luật Thuế BVMT sửa đổi, bổ sung đã điều chỉnh khung thuế BVMT đối với một số sản phẩm chịu thuế. Theo đó, đối với túi nilon sẽ điều chỉnh khung thuế từ 30.000 - 50.000 đồng/kg lên 40.000 - 80.000 đồng/kg.
Việc điều chỉnh khung thuế BVMT đối với túi nilon là rất cần thiết. Ngoài việc hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến môi trường, còn nhằm kiểm soát tốt hơn việc sản xuất túi nilon của các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, không đảm bảo chất lượng, không an toàn, tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng dân cư.
Ngoài sản phẩm đối với túi nilon, trong Dự thảo Luật BVMT sửa đổi đã mở rộng khung mức thuế. Hiện nay, giá bán lẻ xăng, dầu ở nước ta cơ bản đang thấp hơn so với các nước có chung đường biên giới nói riêng và nhiều nước khác trong khu vực ASEAN.
Như vậy, cũng giống như các sắc thuế khác, mục đích chính của thu thuế BVMT không chỉ để tăng thu cho NSNN phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mà còn góp phần nâng cao ý thức của cộng đồng DN, của toàn xã hội trong việc BVMT.
Tài liệu tham khảo:
1. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế BVMT;
2. Luật Thuế BVMT số 57/2010/QH12 của Quốc hội;
3. Các website: mof.gov.vn; tapchitaichinh.vn; gdt.gov.vn...